Còn Sồng Y Rê thì đã bỏ lớp 8A, thôi chức Phó chủ tịch Hội phụ nữ xã, bỏ quên lời hứa phấn đấu học hành để trở thành chị cán bộ, theo chồng lên Kỳ Sơn làm nương làm rẫy...
Chỉ mới ngày đầu tiên đặt chân lên vùng biên giới Việt-Lào (thuộc địa bàn xã Tam Hợp, Tương Dương, Nghệ An), tôi đã lắng nghe được thật nhiều chuyện buồn về số phận những em gái chưa đến tuổi trăng tròn nơi đây. Nếu không phải là không được cắp sách đến trường, thì cũng bỏ học giữa chừng vì... lấy chồng sớm.
Phá Lỏm, những vầng trăng chưa tròn…
Đám ma của Sồng Y Ca được tổ chức theo đúng phong tục của người Mông. Khi thầy cúng đọc xong bài chỉ đường, đội khèn đánh 3 hồi trống rồi thổi khèn bài tắt thở như báo với mọi người lời chào từ biệt của hồn người chết...
Năm nay Y Ca 14 tuổi, bà mẹ già bị bướu cổ của em vừa khóc vừa nói với cán bộ xã “nhà ta khổ lắm, vừa mới bỏ tiền ra để nộp phạt cho nó, bây giờ lại phải mổ lợn để làm đám ma”.
Trong đám ma của Y Ca thực khách không nhìn thấy Sồng Bá Vả. Anh đang lang thang đâu đó trong rừng để khóc than cho chuyện tình bất hạnh của mình.
Đôi bạn Sồng Bá Vả và Sồng Y Ca sinh ra và lớn lên ở bản Huồi Xến. Đến tuổi con trai con gái bắt đầu biết hẹn hò thì ý định tổ chức đám cưới của hai người bị ngăn cản bởi phong tục không lấy người cùng họ. Già làng Sồng Chông Của cho tôi biết “Người Mông không được lấy nguời dân tộc khác, và trong một dòng họ lại không được lấy nhau. Nội hôn tộc người và ngoại hôn dòng họ là đặc trưng nổi bật nhất trong truyền thống văn hoá hôn nhân của người Mông. Người cùng dòng họ mà lấy nhau thì bị coi là phạm tội loạn luân, và bị phạt rất nặng, từ 15 đến 20 lạng bạc”.
Mặc cho Y Ca khóc lóc suốt đêm ngày, còn Bá Vả thì tìm đến một bản người Thái xin làm con nuôi với mục đích “đổi họ” để cưới vợ. Nhưng họ Sồng ở Huồi Xến kiên quyết không cho đôi bạn trẻ làm đám cưới. “Kiên quyết không đồng ý, chỉ vì đó là hai người cùng họ chứ không phải vì bất cứ lý do nào khác...”, già làng Sồng Chông Của khẳng định như vậy.
Khi Sồng Y Ca, 14 tuổi, dám tự tử, vì...không được cưới chồng, thì bạn gái Sồng Y Rê lại phải từ bỏ tất cả để...được lấy chồng sớm.
Theo ông Vi Văn Dậu, Bí thư Đảng uỷ xã, cha mẹ Y Rê được coi là giàu nhất bản, nuôi nhiều trâu bò, có nhiều bạc nén. Sồng Y Rê cũng được thầy Hiệu trưởng Trường cấp II xã Tam Hợp nhận xét là đứa con gái thông minh lanh lợi nhất bản.
15 tuổi, đang học lớp 8, Y Rê đã được bầu làm Phó chủ tịch Hội phụ nữ xã. Khi biết em sắp lấy chồng, ông Dậu đến tận nhà vận động, nói là “Y Rê cưới muộn thôi để làm gương cho những đứa con gái khác, và còn phải học hết lớp 12 để xuống huyện làm việc”. Lúc đó, Y Rê đã đồng ý. Nhưng không hiểu sao chỉ sau đó một tuần trăng đã vội...tổ chức đám cưới. “Thằng chồng Y Rê cũng đẹp trai lắm, nhưng không biết tiếng phổ thông đâu”, ông Dậu than thở.
Trong đám cưới của mình, Sồng Y Rê tránh không nhìn vào mắt của anh lính biên phòng Nguyễn Hoàng Nam. Theo anh Nam thì Y Rê xấu hổ vì “đã hứa với biên phòng là lấy chồng muộn”. Anh cho biết thêm “cũng có lần Y Rê tâm sự rằng muốn lấy chồng ăn lương Nhà nước, nhưng vì phong tục không lấy người dân tộc khác nên không dám nghĩ đến việc này nữa”.
Mẹ của Y Rê cho biết con gái đã về nhà chồng ở Kỳ Sơn. Từ Phá Lõm, hai vợ chồng Y Rê phải băng rừng vượt suối hết một ngày đường mới đến nhà. Theo tục lệ, muốn về thăm bố mẹ Y Rê phải xin phép chồng, từ nay đi đâu xa Y Rê cũng phải có chồng đi cùng.
Thay vì xuống núi ngày ngày cắp sách đến trường, cô sơn nữ này đã chọn con đường…ngược lại: Mỗi sáng sớm lầm lũi đeo gùi lên nương rẫy…Người dân vùng sơn cước này cưới con dâu về để làm thay những công việc năng nhọc mà mẹ chồng đã già không thể gánh vác.
Ẩn mình sau bộ quần áo truyền thống, vẻ e thẹn và câu trả lời quen thuộc “cấm biết mà” đối với người lạ, những cô sơn nữ chưa đến tuổi dậy thì nơi đây luôn luôn sẵn sàng…lấy chồng sớm. Những nỗ lực tuyên truyền cho các em về các hậu quả của nạn tảo hôn, theo anh Nam là “không hiệu quả bằng lời nói của các bậc cha mẹ. Và do đó đã biến người tuyên truyền trở thành một kẻ khó hiểu, xa lạ với các em”. Các em không hề biết rằng mình đã bị “đánh cắp” tuổi thơ do sức ép tâm lý của các bậc cha mẹ muốn con mình sớm “ổn định”.
Tôi gặp Sồng Y Bô, cô sơn nữ được các anh lính biên phòng giới thiệu như là hoa khôi của Phá Lỏm, vào buổi sáng khi đang rửa mặt bên suối. Cô gái có khuôn mặt xinh tươi và nét người đầy đặn như trăng rằm này đã có một đời chồng, mặc dù năm nay em mới vừa tròn 15 tuổi. Em chỉ học hết lớp 4 trước khi làm đám cưới.
Việc Y Bô đột ngột bỏ chồng là một sự kiện lạ với những người Mông nhiều đời nay cư trú bên dãy Trường Sơn. Sồng Xái Hờ, Trưởng bản Phá Lỏm cho biết, người Mông rất ít khi ly dị. Theo luật của người Mông, nếu người chồng tự ý bỏ vợ thì toàn bộ tài sản, con cái sẽ thuộc về người vợ. Trường hợp ngược lại thì thường là không được quyền lợi gì. Thậm chí bố mẹ Y Bô đã phải bỏ tiền ra để làm lễ Huphì nhập ma trở lại (Theo phong tục, vợ bỏ chồng thì bố mẹ vợ phải làm lễ Hùphì để nhập ma trở lại cho con gái, vì sau khi cưới người vợ đã nhập ma tại nhà chồng).
Dù tôi có cố gắng thăm hỏi đến mấy, Sồng Y Bô cũng chỉ có mỗi câu trả lời quen thuộc “Cấm biết mà”.
Vi Văn Long, một anh lính biên phòng thành thạo tiếng Mông và có quan hệ gần gũi với bà con bản Phá Lỏm, cho tôi biết lý do Y Bô bỏ chồng. Anh nói: “Gia đình bên chồng đối xử không tốt với con dâu, nên Y Bô buồn quá mà bỏ về thôi. Phụ nữ vùng núi này khổ lắm, chưa lấy chồng thì còn được đi học, lấy chồng rồi chỉ còn biết mỗi con đường từ nhà lên nương rẫy thôi”.
Sồng Ba Chua, bố đẻ của Sồng Y Bô là một người đàn ông nghèo khổ. Ông tâm sự rằng không thể ngờ được cho con gái lấy chồng sớm vừa làm khổ nó, lại vừa trái pháp luật.
Cũng như tổ tiên mình, các bậc cha mẹ ở vùng núi Tam Hợp muốn gả con càng sớm càng tốt và họ cứ nghĩ mình đã làm đúng.
Những em gái nơi đây như Sồng Y Ca hay Sồng Y Rê...theo “quán tính” cứ đến tuổi 13 là bắt đầu làm quen và gắn bó với thêu thùa, in hoa để chuẩn bị lập gia đình. Nếu không tìm được ý trung nhân trước tuổi thành niên, nhiều khả năng họ sẽ phải sống độc thân suốt đời và không được cộng đồng thừa nhận. Dù sao tục lệ này đã có từ nhiều đời nay. Chẳng ai dám xét lại các hủ tục của người đời trước, ngoại trừ bộ đội biên phòng và các thầy cô giáo từ dưới xuôi lên.
Mùa tảo hôn
Hờ - trưởng bản, trò chuyện với tôi bằng thứ tiếng phổ thông không thật chuẩn “Con gái
![]() |
| Phụ nữ ở Phá Lỏm địu con đi làm |
người Mông không quen lấy chồng muộn đâu. Cứ 13 tuổi trở lên là bị bắt làm vợ rồi đó”.
Bản Huồi Xến và bản Phá Lỏm được coi như hai bản cuối cùng của người Mông sống ở đỉnh Trường Sơn. Trên con đường chuyển cư vào đất Việt. Nơi đây, chỉ cần đi nửa ngày đường là sang đến “vùng phỉ” ở bên kia biên giới.
Đêm, Sồng Xái Hờ đưa tôi đi chơi trong bản. Ngôi nhà mái dài của Bí thư chi đoàn Lầu Vả Lầu, nằm ở lưng đồi. Phà Lõm chỉ có hai dòng họ, họ Sồng và họ Lầu. Họ Sồng ở dưới thung lũng. Họ Lầu dựng nhà trên đồi cao. Bên chén rượu ngô, bí thư Lầu hồn nhiên kể về gia đình mình: “Ta và con vợ làm đám cưới từ năm 1997, khi đó ta 15 tuổi còn vợ mới 13. Đến nay đã có 3 đứa con rồi. Bản ta có 29 đoàn viên, người nào xấu thì đám cưới muộn một tí, còn người nào đẹp thì lấy vợ lấy chồng sớm như ta cả thôi”.
Được biết trước khi lấy vợ, Lầu mới học hết lớp 7 trường PTCS ở trung tâm xã. Còn Sồng Y Co vợ Lầu thì chỉ “tốt nghiệp” một lớp xoá mù chữ do các anh lính biên phòng mở tại bản. Khi tôi hỏi về nguyên nhân bỏ học, Lầu trả lời: “Cô giáo cũng muốn ta đi học. Nhưng lấy vợ rồi thì phải dành thời gian đi làm nuôi vợ thôi”.
Trong lúc chúng tôi trò chuyện, Y Co ngồi im lìm bên bếp lửa. Tôi muốn hỏi thăm Y Co nhưng Lầu nói rằng, Y Co chỉ trò chuyện được bằng tiếng Mông. Trưởng bản Hờ nhận lời làm phiên dịch cho tôi và giải thích: “Lớp xoá mù có 24 người. Học xong ai cũng bận đi làm nương làm rẫy nên cái chữ rơi hết rồi. Chỉ có ta là người duy nhất trong lớp còn biết tiếng phổ thông đó”.
Tôi đã hỏi thật nhiều, nhưng Y Co đều trả lời: “Cấm biết mà”. Lầu Vả Lầu thì cứ ngồi nghe những câu hỏi của tôi rồi cười mỉm mà không nói gì. Sồng Xái Hờ lại thêm một lần nữa phải giải thích cho tôi hiểu: “Phụ nữ Mông không biết trả lời khách lạ đâu, mọi việc đã có người chồng quyết định hết rồi”.
Lầu Vả Lầu khẳng định thêm: “Dù mua một bộ quần áo mới hay cần phải đi đâu làm gì thì ta cũng làm thay cho vợ hết mà. Vợ ta hắn chỉ biết làm nương làm rẫy và sinh con đẻ cái thôi”.
Theo lời Bí thư Lầu, các đoàn viên nữ sau khi lập gia đình thì hoàn toàn không có quyền quyết định bất cứ việc gì, nhất là việc tiếp tục đi học và lựa chọn thời điểm sinh con.
Dù còn nhỏ tuổi, các em gái phải mang trên vai gánh nặng sinh sản ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc sống vợ chồng. Mặc dù đời sống dân bản đã phát triển hơn trước, số lượng trâu bò, xe máy, đài cátxét…theo thống kê của già làng Sồng Chông Của là “nhiều không đếm hết”. Thế nhưng chị Vi Thị Đăm Thuỳ, cán bộ văn phòng xã Tam Hợp, cho biết, tình trạng suy dinh dưỡng, nạn mù chữ và mất vệ sinh y tế nghiêm trọng là phổ biến ở các bản người Mông.
Ngồi trò chuyện với chị Thuỳ và các y, bác sĩ ở Trung tâm y tế xã, tôi hết đỏ mặt đến ù tai khi các chị đọc tên hàng loạt “bệnh phụ nữ” mà các em gái vùng núi này thường mắc phải do tảo hôn như: xuất huyết, đứt trực tràng, cũng như hàng loạt các tai biến khi mang thai...
Để minh chứng, chị Thuỳ kể luôn cho tôi nghe về trường hợp của vợ chồng Lầu Bá Xỉ và Sồng Y Xềnh. Khi làm đám cưới vào năm 2001, đôi bạn trẻ này mới ở độ tuổi 13, 14. Và mãi đến đầu năm nay, người vợ mới hội đủ các yếu tố cần thiết của người phụ nữ để mang thai. Còn người chồng thì đi đâu cũng kêu khổ vì “Bố mất sớm, mẹ thì già rồi, lấy vợ còn bé quá chưa làm được gì, nên mọi việc nặng nhọc trong gia đình đều phải gánh vác hết”.
| Đường vào Phá Lỏm Chiếc xe cũ nát, nhét đầy hành khách, chạy vòng vèo lốc xốc từ sáng sớm đến quá trưa mới vượt qua gần 300 km quốc lộ từ thành phố Vinh lên đến huyện biên giới Tương Dương. Từ thị trấn miền biên viễn này khách lại phải bắt xe ôm vào trung tâm xã Tam Hợp, và từ trung tâm xã khách chỉ còn cách đi bộ độ 5 tiếng đồng hồ vào bản Phá Lỏm. Bởi con đường lên biên giới đang thi công, người và xe không thể qua lại, nên khách phải tìm một người địa phương để được “hướng dẫn” cách trèo đèo lội suối. |
Câu chuyện buồn của chàng trai Sồng Bá Ca, người duy nhất ở Phà Lõm học hết lớp 12, cũng không khác mấy so với cuộc đời bất hạnh của các em gái kể trên. Chỉ vừa tốt nghiệp năm nay, nhưng Bá Ca đã lập gia đình từ năm 1997. Tháng trước, khi Bá Ca đang đi học dưới huyện, vợ Bá Ca, một cô bé đang ở độ tuổi đến trường và chơi búp bê, đi lấy củi trong rừng chẳng may bị ngã từ trên thác nước xuống. Nay Bá Ca bị mang tiếng là “chết vợ” nên rất khó kiếm được mẹ kế cho hai đứa con thơ.
Người Mông rất kiêng trong ngày cưới có tiếng sấm. Họ cho tiếng sấm là báo hiệu điều không tốt lành cho hạnh phúc lứa đôi. Vì vậy, trước đây họ thường làm đám cưới vào tháng 11, 12 âm lịch. Tuy nhiên, những năm gần đây do có phong trào “đưa trẻ đến trường”, nên ở Phá Lỏm nhiều đám cưới lại được tổ chức vào…mùa hè.
Theo sự giải thích của chị Thuỳ thì lý do là “Trong năm học việc cưới xin của các em không được thầy cô giáo đồng ý , nên cha mẹ các em hướng dẫn cho con mình cưới vào những tháng nghỉ hè. Vào năm học mới, các thầy cô bị đặt vào…sự đã rồi khi thấy hai cô cậu học trò dắt tay nhau đến trường”.
