Google News

Lực cản nào sinh viên phải vượt qua khi NCKH?

Lực cản nào sinh viên phải vượt qua khi NCKH?
Họ đều là những SV có công trình đạt giải Nhất “Sinh viên nghiên cứu khoa học” của Bộ GD&ĐT.  Ở họ đều có điểm chung: sự say mê NCKH. Tuy nhiên, con đường đến với NCKH của họ không hoàn toàn chỉ là thảm hoa...

Rất thích nghiên cứu nên ngay từ khi còn là SV năm thứ nhất tôi đã tham gia NCKH. Từ đó đến nay, năm nào tôi cũng có công trình NCKH và gần như năm nào cũng đoạt giải cấp khoa hoặc cấp trường.

Trong quá trình thực hiện, tôi được nhà trường hỗ trợ về máy móc, internet. Ngoài ra, trường còn hỗ trợ 100 000 đồng, khoa hỗ trợ 50 000 đồng. Tất nhiên, số tiền ấy còn ít ỏi so với những gì mà một SV khi NCKH phải đầu tư. Nhưng, tôi vẫn cố gắng trang trải được.

Tôi cho rằng, NCKH là một nhu cầu tất yếu với mỗi SV. Phương pháp học ĐH bây giờ cố gắng hướng từ đào tạo sang tự đào tạo. NCKH giúp SV có cách học tập tích cực hơn, chủ động hơn. Vì thế, trong những năm gần đây, ngay ở phạm vi trường ĐH Ngoại ngữ thôi cũng đã thấy phong trào NCKH trong SV ngày càng phát triển, ít nhất là về số lượng người tham gia.

Như lớp tôi chẳng hạn. Năm thứ nhất, tôi là SV duy nhất trong lớp (20 người) có công trình NCKH. Nay (năm thứ tư) thì có đến 90% SV trong lớp tham gia. Điều đáng buồn là công trình NCKH của SV hoàn thành xong rồi “để đấy”, kể cả những công trình được đánh giá cao. Gần như chưa có đề tài nào của SV được ứng dụng vào thực tiễn.

Nhưng đó cũng không phải là lý do đáng kể cản trở sự nhiệt tình của SV đối với NCKH. Có một số yếu tố gây ảnh hưởng lớn hơn. Trước hết, đó là sự nhiệt tình của giảng viên (GV) hướng dẫn. Nhiều trường hợp GV ra một đề tài cho SV, sau đó mặc kệ SV muốn làm thế nào thì làm khiến SV lúng túng và nản chí.

Thứ hai, nhiều SV tuy say mê NCKH nhưng cuộc sống còn khó khăn mà sự hỗ trợ của trường lại hạn chế. Thứ 3, cách GD ở ta thực chất chưa kích thích cho SV tự học, người học vẫn bị động nên không tìm ra được cho mình hướng để NCKH.

SV Kim Hải Quang
SV Kim Hải Quang

Kim Hải Quang (ĐH Bách khoa – ĐH QGTPHCM): Chương trình học nặng và lý thuyết nhiều

Trên lớp, SV được học lý thuyết rất nhiều. Chính việc nghiên cứu khoa học đã giúp SV thấm nhuyễn được lý thuyết đã học. Những kiến thức khoa học được tiếp thu mà không được vận hành thì sẽ dễ bị SV quên ngay tức khắc. NCKH là cơ hội tốt nhất để SV tiếp xúc với thực tiễn và phát huy được khả năng của mình.

Vì thế, ở trường tôi trong những năm gần đây nở rộ và phát triển mạnh phong trào SV NCKH. Tiềm năng NCKH trong SV là rất lớn. Tuy nhiên, hướng quản lý để giúp NCKH trong SV phát triển bền vững còn chưa được tốt lắm. Năm thứ ba là lúc tôi bắt đầu làm quen với công tác NCKH. Năm đó, chỉ một số bạn trong lớp tôi tham gia vì chương trình học hơi nặng và đặt ra vấn đề lý thuyết hơi nhiều.

Thực ra, qua NCKH thì SV gặt hái được kiến thức thực sự hơn là kiến thức mà mình học bằng cách thuộc lòng (rồi sau đó quên đi một cách nhanh chóng). Nhưng nhiều bạn vẫn chỉ loay hoay với việc học cũng đủ mệt và nên chỉ quan tâm tới việc trả môn hơn là NCKH. Tuy vậy, không thể trách các bạn vì vấn đề điểm số và những điều cần phải đạt được buộc họ phải làm như vậy.

Nhiều người cho rằng sự hỗ trợ ít ỏi về tài chính của trường ĐH làm giảm đi sự nhiệt tình tham gia NCKH trong SV, nhưng tôi nghĩ đó không phải là lý do lớn nhất. NCKH thì có nhiều hướng. Có thể đi sâu nghiên cứu các vấn đề nặng về lý thuyết và mô phỏng thì sẽ không đòi hỏi kinh phí lớn lắm.

Khi buộc phải chế tạo thiết bị lớn thì mình phải tính toán thật kỹ trên giấy tờ, nếu khả thi thì vẫn có người tài trợ cho mình. Đúng là sự nhiệt tình của GV rất quan trọng. Chúng tôi may mắn có những thầy cô rất nhiệt tình trong hướng dẫn SV NCKH, vì thế niềm say mê của chúng tôi càng được tiếp “lửa”.

Về việc phần nhiều những công trình NCKH của SV hoàn thành xong rồi “xếp xó”, tôi cho rằng không ảnh hưởng nhiều tới sự nhiệt tình của SV. Với SV thì vấn đề quan trọng NCKH là để học tập và rèn luyện một số kỹ năng. Còn chuyện công trình nghiên cứu ra có phục vụ cuộc sống được hay không thì chưa phải là nhiệm vụ của chúng tôi.

Tất nhiên, nếu được ứng dụng thì quá tốt và chúng tôi rất vui, rất hãnh diện vì điều đó. Nhưng công trình của chúng tôi làm (Hệ thống mô phỏng máy bay) thì dù có thể người ta “xếp xó” nó thì chúng tôi vẫn tự xài được nó trong quá trình học bộ môn của mình. Nếu người khác có nhu cầu sử dụng thì chúng tôi sẽ hợp tác.

Hiện nay, chúng tôi đang liên hệ và tính toán sẽ hợp tác thế nào với một số đơn vị. Bước đầu, thái độ của họ là ủng hộ, tôn trọng. Vấn đề còn lại là chúng tôi phải chứng tỏ là mình làm được.

Lê Việt Anh
Lê Việt  Anh

Lê Việt Anh (SV năm thứ tư, HV Quân y): Lực cản ngay trong chính sự không tích cực của mỗi sinh viên

Tôi cảm thấy mình là người may mắn  vì được đào tạo trong một môi trường rất khuyến khích SV NCKH. Ngay từ ban đầu chúng tôi đã nhận được một số kinh phí hỗ trợ của trường và của khoa. Số tiền khoảng hơn 1 triệu đồng cho một đề tài.

Tất nhiên, chúng tôi vẫn phải bỏ tiền túi với những khoản nằm ngoài dự kiến. Nhưng so với các bạn SV ở các trường khác (mà tôi nghe nói chỉ được khoảng 150 000 – 200 000 đ/ đề tài) thì quả là chúng tôi thuận lợi hơn. GV hướng dẫn ở trường tôi cũng rất nhiệt tình. Các thầy rất bận nhưng hễ SV tìm ra được đề tài nghiên cứu là các thầy sẵn sàng hỗ trợ.

Dĩ nhiên, NCKH thì rất mất thời gian, ảnh hưởng tới kết quả học tập các môn khác. Nhưng một khi đã say mê thì phải cố gắng cân đối thời gian hợp lý. Thực tế là năm ngoài và năm nay, kết quả học tập của nhóm chúng tôi (5 người) thậm chí còn cao hơn những năm trước đó. HV Quân y có cơ chế khuyến khích SV NCKH khá hiệu quả là cộng điểm thưởng vào kết quả học tập cho những SV có công trình NCKH chất lượng tốt.

Một thuận lợi khác của chúng tôi là vừa được hoc lý thuyết ở trong trường, đồng thời có luôn các bệnh viện để thực hành (BV 103 và Viện Bỏng Quốc gia). Do đó, khi các đề tài của SV đưa ra báo cáo và chấm điểm, đề tài nào tốt là sẵn sàng được cho vào ứng dụng thực tế ngay.

Tất nhiên, được đào tạo trong môi trường quân đội nên việc tham gian NCKH của chúng tôi có một số khó khăn. Ví dụ như ngay cả việc xin phép ra ngoài cũng khó. Ngành của chúng tôi cũng có những đặc thù khiến SV tham gia NCKH muộn. Mấy năm đầu chúng tôi học kiến thức cơ sở, lại chưa được học lâm sàng nhiều nên không đủ trình độ tham gia NCKH.

Vì vậy, đã sang năm thứ tư, lớp có 64 người nhưng chỉ mới có 9 SV NCKH. Chương trình học 7 năm. Vẫn còn nhiều cơ hội cho những bạn SV có nhiệt tình NCKH. Theo tôi, lý do gây cản trở nhất với việc SV NCKH ở HV Quân y là ngay chính ở những học viên không tích cực tham gia NCKH.