Năm 1949, nhà thơ cộng sản Chilê Pablô Nêruđa lần đầu tiên tới Maxcơva. Trước đó, tại Pari đã diễn ra Đại hội quốc tế các chiến sĩ bảo vệ hoà bình. Đây là phong trào rộng rãi trên khắp thế giới và dùng những hình thức phổ cập như mít tinh, biểu tình, ra các lời tuyên bố và kêu gọi nhằm chống các thế lực phản động mưu toan biến cuộc “chiến tranh lạnh” thành cuộc “chiến tranh nóng”.
Dĩ nhiên, phong trào hoà bình này được Liên Xô hoàn toàn ủng hộ. Đoàn đại biểu Xô Viết đến Paris bao gồm những nhân vật nổi tiếng như các nhà văn Ilia Erenbua, nhà văn Alếchxanđrơ Phađêép và viện sĩ Xcôbelưsin.
Tại đại hội hoà bình Pari, một trong những diễn giả được hoan nghênh nồng nhiệt nhất là nhà thơ cộng sản và cựu thượng nghị sĩ Chilê Pablô Nêruđa.
Hồi đó Pablô Nêruđa vừa xung đột gay gắt với Tổng thống độc tài Chilê Viđela và bị Viđela đặt ra ngoài vòng pháp luật. Nêruđa bị tước bỏ danh hiệu thượng nghị sĩ, phải rút lui vào hoạt động bí mật, ra nước ngoài sống và lặng lẽ đến Pari không ai hay biết. Khi ông bước lên diễn đàn đại hội và tiến tới micrô để phát biểu ý kiến thì tất cả mọi người đều hân hoan và sửng sốt.
Đặc biệt hân hoan là những thành viên đoàn đại biểu Xô Viết. Phađêép nóng lòng muốn mời Nêruđa sang thăm Liên Xô. Ngoài lý do chính trị còn một lý do vô cùng thích hợp nữa – ở Liên Xô sắp kỷ niệm 2 ngày lễ lớn: 800 năm ngày thành lập Maxcơva và 150 năm ngày sinh Puskin. Puskin không chỉ là nhà thơ vĩ đại mà còn là nạn nhân của chế độ chuyên chế. Nêruđa cũng vậy: ông không những là nhà thơ lừng lẫy tiếng tăm mà cũng đang bị chế độ chuyên chế thời hiện đại truy nã.
Vậy là vào năm 1949, Pablô Nêruđa cùng vợ là Đêlia lần đầu tiên đặt chân đến Mátxcơva. Hai vợ chồng ông được giới chính trị và văn hoá Xô Viết đón tiếp long trọng và nồng nhiệt như những người bạn của đất nước Xô Viết.
Được phân công tháp tùng hai vị khách quý trong những ngày ở Maxcơva và Vêrôsca - Nữ nhân viên trẻ đẹp của Hội Liên lạc văn hoá với nước ngoài. Còn chồng chị là Lêva thì chuyên phiên dịch cho Nêruđa trong những cuộc gặp gỡ giữa ông với bạn đọc Xô Viết.
Con đường dẫn đến chủ nghĩa Cộng sản
Số phận Pablô Nêruđa khá lý thú. Bố ông làm việc trong ngành đường sắt, mẹ ông mất sớm và ông phải sống với mẹ kế. Hồi học phổ thông, cô giáo của ông là Gabrien Mixtơran - Nữ thi sĩ lớn của Chilê được giải Nôben Văn học. (Không hiểu có trường hợp nào nữa không khi một nhà thơ được giải Nôben lại gọi lên bảng một cậu học trò mà về sau cũng sẽ được trao giải Nôben Văn học?).
Chính là nhờ Gabrien Mixtơran mà Pablô Nêruđa đem lòng yêu mến thơ Nga, yêu mến Puskin, Gôgôn, Tônxtôi, Đôxtôiépxki. Nhưng không chỉ có thế. Trong các quán ăn mà giới nghệ sĩ phóng túng của Chilê thường lui tới, người ta luôn luôn nhìn thấy nhà thơ trẻ lãng mạn nghèo rớt mùng tơi này. Ngay từ hồi đó, Nêruđa đã trở thành gương mặt được giới trí thức Chilê rất mực yêu quý. Rút cuộc, bạn bè quyết định rằng một nhà thơ như vậy không thể nghèo rớt mùng tơi được.
Nhờ những cuộc vận động hậu trường, Nêruđa được mời đến làm việc tại Bộ Ngoại giao Chilê. Nhà thơ trẻ bắt đầu sự nghiệp ngoại giao: ông liên tục làm lãnh sự Chilê tại Miến Điện, Xâylan, Ấn Độ, Nhật Bản… Tiền lương chẳng là bao nhưng được cái lợi là có dịp đi đây đi đó khắp thế giới. Nêruđa tích luỹ thêm được kinh nghiệm và vốn sống để viết tiểu thuyết và làm thơ.
Năm 1934, ông đến Tây Ban Nha. Tại đây sắp nổ ra nội chiến. Nêruđa kết bạn với nhà thơ cách mạng Tây Ban Nha Gácxia Lóocca và nói chung với nhóm quốc tế những nhà trí thức tiến bộ đến Tây Ban Nha để giúp đỡ chính quyền cộng hoà đấu tranh với chủ nghĩa phát xít Phrăngcô.
Cũng tại Tây Ban Nha, Nêruđa đã làm ba việc khiến cuộc đời ông đổi khác: thứ nhất, ông kết hôn với Đêlia Đen-Carin; thứ hai, ông vứt bỏ những ước lệ ngoại giao khi công khai tuyên bố rằng nước cộng hoà Chilê ủng hộ nền cộng hoà Tây Ban Nha; thứ ba, ông công bố hai tập thơ dưới nhan đề “Nơi cư trú là Trái đất”.
Nhà ngoại giao Nêruđa sẽ phải trả giá trong vài năm trời. Nhưng nhà thơ tầm cỡ thế giới Nêruđa thì đã xuất hiện. Giải văn chương Nôben năm 1971 đem lại cho ông vinh quang vĩnh cửu.
Nhà thơ Nêruđa còn trở thành nhà chính trị. Sau khi trở về Tổ quốc, ông tận mắt chứng kiến cảnh nghèo khổ của những xóm thợ mỏ Chilê. Và ông quyết định đấu tranh vì quyền lợi của họ. Hồi ở Tây Ban Nha, bạn bè cho ông biết rằng có một phương thuốc vạn năng chữa lành những căn bệnh xã hội-đó là chủ nghĩa Mác. Ít lâu sau, ông được bầu vào Thượng viện và được mệnh danh là “thượng nghị sĩ của giới thợ mỏ”. Năm 1945 ông gia nhập Đảng Cộng sản Chilê.
Mặc dù là một nhân vật nổi tiếng nhưng ông là một đảng viên rất có ý thức và kỷ luật. Chẳng hạn, ông đã hiến cho quỹ Đảng một nửa số tiền thưởng nhờ được Giải thưởng Lênin “Vì sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc”.
Những người cộng sản hiểu rằng Pablô Nêruđa là một viên kim cương, là niềm tự hào của những người cộng sản, vì vậy phải bảo vệ ông. Ông là bạn thân của những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Chilê hồi đó như Coócvalan và Tâytenbôi. Ông không bao giờ phản bội họ và họ cũng không bao giờ phản bội ông.
Đêlia, Matinđa và những phụ nữ khác
Pablô Nêruđa tôn thờ phụ nữ. Ông đi nhiều nơi trên thế giới và gần như đến đâu cũng có quan hệ với phụ nữ. Nhưng phụ nữ là một chuyện, còn vợ lại là chuyện khác. Ông có tất cả 3 người vợ.
Có một câu nói phổ biến rằng người vợ thứ nhất đến từ trời, người vợ thứ hai đến từ người, còn người vợ thứ ba đến từ quỷ dữ. Người vợ đầu tiên của Paolô Nêruđa là một phụ nữ Hà Lan tên là Maria Hanghêna. Hầu như không ai còn nhớ gì về bà.
Người vợ thứ hai của Nêruđa là một phụ nữ Achentina tên là Đêlia Đen- Canrin. Trong nhóm trí thức tụ họp ở Mađrit trước cách mạng, Đêlia nổi bật lên như một gương mặt rực rỡ nhất. Chị không những là một phụ nữ thông minh. Xinh đẹp, quyết toán, dũng cảm, mà còn kiên trì những quan điểm cách mạng rõ ràng.
Dường như chính là nhờ chị mà lòng khát khao chính nghĩa của Nêruđa có được những đường nét cụ thể. Chị đúng là “bạn chiến đấu” của Nêruđa theo nghĩa chân chính của ba tiếng này.
Việc Nêruđa giúp đỡ những người cộng hoà Tây Ban Nha, việc ông bước vào hoạt động chính trị tích cực, cuộc đối đầu quyết liệt của ông với nhà độc tài Viđela, những năm tháng ông phải rút vào hoạt động bí mật, bị săn đuổi, phải bỏ ra nước ngoài, việc ông trở về Tổ quốc năm 1952 trong ánh vinh quang – tất cả những biến cố quyết định đó trong cuộc đời Nêruđa đều gắn liền với tên tuổi và hình bóng Đêlia Đen – Carin.
Nhưng mặt khác, chị không hề có khái niệm gì về việc nhà, về chăm nom gia đình. Đối với chị, đó là những khái niệm xa lạ. Còn Nêruđa dần dần không còn trẻ nữa, ông cần bàn tay dịu dàng tận tuỵ của một người vợ nội trợ… Kết quả là sau 18 năm chung sống, họ bất ngờ chia tay nhau.
Người vợ thứ ba của Nêruđa tên là Matinđa Urutia. Liệu Matinđa có phải là do quỷ dữ phái đến không? Nếu như vậy thì đó chỉ là đối với Đêlia: chị căm hận đối thủ của chị cho đến cuối đời (Đêlia mất năm 104 tuổi).
Matinđa Urutia chắc hẳn không phải là một gương mặt rực rỡ. Là một ca sĩ bậc trung, chị ngẫu nhiên quen biết Nêruđa. Nhưng thật lạ lùng là chị và Nêruđa lại hết sức hợp nhau. Cùng với việc chị xuất hiện, trong thơ Nêruđa lại xuất hiện trở lại những mô típ tình yêu say đắm.
Theo lời đồn đại thì chính Nêruđa đã thừa nhận: “Matinđa là người phụ nữ duy nhất không tìm cách ràng buộc tôi, bởi vậy, chính tôi lại ràng buộc vào cô ấy”. Họ chung sống hạnh phúc với nhau suốt 20 năm cuối cùng.
Ra đi
Năm 1970, một người bạn cũ của Nêruđa là Xanvađo Alenđê được bầu làm Tổng thống Chilê. Có thể nói, việc Xanvađo Alenđê trúng cử Tổng thống là nhờ Nêruđa: ông ra tranh cử với tư cách là đại diện của Đảng Cộng sản, nhưng vào thời điểm quyết định thì ông rút lui để tạo thuận lợi cho Alenđê.
Dưới thời Tổng thống Alenđê, ông trở lại công việc ngoại giao, làm đại sứ Chilê ở Pháp. Đối với Nêruđa thì đây là sứ mệnh lương tâm và đạo đức. Ông hoạt động ngoại giao không phải vì danh vọng hay tiền bạc - ông đâu có cần đến những thứ đó. Ông chân thành tìm mọi cách bảo đảm cho Tổng thống Alenđê được châu Âu ủng hộ, đặc biệt là về kinh tế.
Ngày 11/9/1973, viên tướng cực hữu Pinôchê làm cuộc đảo chính đẫm máu lật đổ Tổng thống Alenđê. Y thẳng tay sát hại những đối thủ chính trị thuộc Đảng Cộng sản và đảng Xã hội Chilê. Trong ngày diễn ra cuộc đảo chính, Nêruđa không có mặt ở thủ đô mà đang hấp hối trên giường bệnh tại Ixla-Nêgrô. Một nhóm những tên côn đồ xông vào nhà ông ở thủ đô Xantiagô để thanh toán “tên macxít số một”.
Bà Matinđa khoá cửa dẫn lên tầng trên. Bọn côn đồ trút mối căm thù chủ nghĩa Mác bằng cách đập phá nhà ông. Ống dẫn nước bị vỡ, nước chảy tràn khắp nơi. Rồi chúng bỏ đi.
20 ngày sau, Nêruđa từ trần. Khi đến chia tay lần cuối cùng với nhà thơ được giải Nôben, đại sứ Thụy Điển ở Chilê trong bộ lễ phục màu đen trang trọng đã phải bước qua các vũng nước còn lênh láng trên sàn nhà. Giờ đây, ngôi nhà này được biến thành nhà bảo tàng Pablô Nêruđa.