Chuyện người tử tù có một không hai

Chuyện người tử tù có một không hai
TP - Nhiều người trong số chúng ta từng nghe tên Lê Quang Vịnh, một người Cộng sản trẻ, một thanh niên trí thức hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên Sài Gòn- Gia Định trước ngày miền Nam giải phóng.
Chuyện người tử tù có một không hai ảnh 1
Lê Quang Vịnh và mẹ ở Côn Đảo (năm 1971)

Anh bị toà án ngụy quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962, rồi đày ra Côn Đảo cầm cố ròng rã suốt 14 năm liền. Tên anh là một trong những cái tên đã trở thành biểu tượng của sự quật khởi, hiên ngang trước kẻ thù của tuổi trẻ Việt Nam bất khuất.

Nhà thơ Ngô Minh đã tiếp xúc, lắng nghe ông Lê Quang Vịnh (nay đã nghỉ hưu, về ở Huế) kể về cuộc đời của ông mấy ngày liền với bao nhiêu điều xúc động.

Được sự đồng ý của nhà văn, từ số Tiền Phong Cuối tuần này, chúng tôi xin trích đăng Chuyện người tử tù có một không hai với mong muốn cung cấp cho bạn đọc những nét cô đọng nhất về người tử tù lừng danh ấy…(Đầu đề do tòa soạn đặt)      

Lê Quang Vịnh có rất ít thời gian để yêu. Vì khi lớn lên anh chỉ lo học, vô tù, ra tù lại học và hoạt động cách mạng. Có thời gian rỗi thì đi dạy thêm để kiếm tiền nuôi mình và nuôi em, gánh đỡ  nỗi vất vả cho mẹ và chị ở Huế. Rồi 8/1961 anh đã bị địch bắt, bị kết án tử hình. 

Như vậy anh  mất đến 15 năm nằm trong nhà lao Chí Hoà và Chuồng Cọp, hầm đá Côn Đảo. Đó là đoạn đời trẻ trung nhất,  đoạn đời yêu đương mãnh liệt nhất của mỗi đời người. Khi anh ra tù thì đã ”tứ tuần”. Dù thời gian ngặt nghèo như vậy, Lê Quang Vịnh cũng có những mối tình nồng ấm nhưng đầy nước mắt.

Điều đặc biệt là người anh yêu (và yêu anh ?)  trong những mối tình ấy tên tuổi đều gắn với những sự kiện nổi tiếng, con người nổi tiếng. Đó là chị Quỳnh Như con của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ,  chị Trần Thị Lý , cô gái anh hùng trong thơ Tố Hữu “Em là ai cô gái hay nàng tiên...” và chị Trần Thị Kim Khánh, em gái của  anh Trần Trọng Tân, bạn tù Côn Đảo cùng Vịnh.

Những mối tình đó đan dệt, kết nối, luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của Lê Quang Vịnh cho tới tận hôm nay. Anh rất ngại kể chuyện về những mối tình cũ của mình với tôi. Tôi nghĩ, có lẽ bởi có hiện diện hàng ngày bên anh người vợ thân yêu, luôn chung thủy yêu thương anh, hiểu anh.

Nhưng thơ anh đã mách với tôi sự thật. Và chị Khánh, vợ anh, cũng không hề ngại nói với tôi về  những người yêu của chồng thời trẻ. Câu chuyện nên chồng nên vợ của  anh Vịnh, chị Khánh sẽ  được kể  ở đoạn sau. Còn phần này xin kể với bạn đọc ba mối tình mà  Lê Quang Vịnh gọi là “tình yêu đơn phương” của mình.

Anh Lê Quang Vịnh bước vào tuổi 20 là một chàng trai cao ráo, đẹp trai, học giỏi. Anh tốt nghiệp thủ khoa khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, lại là giáo sư trường Petrus Ký, một trường hàng đầu ở miền Nam thời đó (trên cả trường Quốc học Huế bấy giờ ), lương rất cao.

Đó là nghề nghiệp, danh tiếng, lương bổng. Quan trọng  hơn đối với giới đẹp , Lê Quang Vịnh là người hiểu biết rộng, lịch lãm, có nhiều biệt tài như viết văn, làm thơ, sáng tác ca khúc, nên tất nhiên rất nhiều cô gái cùng trang lứa để ý, thầm yêu trộm nhớ. 

Nhưng cuộc đời  hoạt động cách mạng của anh đã không cho phép anh giao tiếp rộng rãi với phái đẹp. Anh chỉ quen biết những người con gái gắn bó với  công việc của mình. Và số phận tử tù của anh đã làm cho những mối tình đó thành những mối tình đớn đau, nước mắt... 

Khi nghe tin giáo sư Lê Quang Vịnh và đồng đội bị chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình, nữ thi sĩ Anh Thơ đã đọc báo và  “nhặt” được một chi tiết rất đắt giá đăng trên báo chí lúc đó. Thế là bài thơ Dòng nước mắt ra đời.

Bài thơ viết về tâm trạng của một cô gái có mặt trong phiên toà ngụy quyền Sài Gòn xử án Lê Quang Vịnh và “tiểu đội” của anh đêm 23/5/1962 . Cô gái đứng lẫn trong số người đến dự phiên toà. Cô gái khóc và không lau, để mặc cho dòng nước mắt lăn hoài trên má :

Em không lau mặc cho dòng nước mắt
Chảy dài, chảy mãi, chảy triền miên
Nhìn anh đó,  hiên ngang bất khuất
Trán rạng ngời, mắt chói niềm tin!                                    
...Anh của em ơi người anh thi sĩ
Những ý thơ nào ru thắm tình ta
Những ý thơ nào ước mơ hạnh phúc
Cho chúng mình, cho những đôi lứa vui ca...…

Gần 50 chục năm nay, không ai biết người khóc vì Lê Quang Vinh đó là ai.  Tôi hỏi anh Vịnh nhiều lần. Cũng có thể là chính anh cũng không thể biết được. Nhưng cuối cùng anh mới rụt rè tiết lộ :

-  Đó là cô Tuyết Ngọc. Năm đó Ngọc là một sinh viên, ở trong phong trào  đấu tranh, là một “cơ sở” của mình. Khi phiên toà mở, Ngọc có đến dự, nhưng  mình không nhìn thấy…

- Thế làm sao anh biết  đó là  chị Tuyết Ngọc ?

- Chính Ngọc kể cho tôi biết. Sau  giải phóng, tôi ra tù về lại Sài Gòn, Ngọc có đến thăm và cho tôi xem bài thơ mà em đã cắt trên báo và  giữ từ 15 năm qua như một kỷ vật. Lúc gặp lại tôi, Ngọc cũng khóc ròng. Có thời gian Tuyết Ngọc làm Giám đốc Nhà văn hóa thiếu nhi thành phố Hồ Chi Minh . Bây giờ thì em đã về hưu rồi…

- Anh có thể coi đó là một kỷ niệm về tình yêu ?

- Mình với  Tuyết Ngọc cùng hoạt động nội thành, nhiều lần cùng nhau đi những chặng đường dài ra “cứ” họp. Ngọc lại rất xinh gái, nên tôi rất có cảm tình. Con trai chưa vợ, gần gũi con gái đẹp, ai mà chẳng rung động, xốn  xang. Có lẽ Ngọc cũng có tình cảm riêng tư với tôi,  mà bài thơ của  nữ sĩ Anh Thơ  là một minh chứng , hay  đó chỉ  là những giọt nước mắt chảy vì tình đồng chí ?

Vâng, cũng có thể đó  vừa là tình yêu, vừa là tình đồng chí. Điều  đáng tiếc là  thời gian hoạt động nội thành đó,  cấp trên quy định là không ai được “yêu đương lung tung”, vì sợ bị lộ tung tích, ảnh hưởng đến phong trào cách mạng.  Nên dù có tình cảm riêng cũng không ai dám thổ lộ, bày tỏ. Vì thế mà chút tình cảm lứa đôi ý  mãi mãi  chôn chặt trong lòng mỗi người!

Khi học ở Huế cũng như khi vào Sài Gòn học đại học,  Lê Quang Vịnh hay lui tới nhà của thầy Tôn Thất Dương Kỵ. Gia đình thầy Kỵ cũng coi Vịnh như người trong gia đình. Giáo  sư Tôn Thất Dương Kỵ và bà Huệ Phương có tám người con. Nam nữ gì cũng đều có chữ lót là Quỳnh: Quỳnh Diên, Quỳnh Trân, Quỳnh Đệ (con trai), Quỳnh Như, Quỳnh Uyển, Quỳnh Diên ( liệt sĩ) , Quỳnh Chi.

Tôn Nữ Quỳnh Diên đã vượt tuyến ra miền Bắc từ năm 1954. Vì là con một trí thức yêu nước, có tư tưởng chống Mỹ quyết liệt, nên tất cả các con  của thầy Kỵ đều tham gia phong trào đấu tranh chống Mỹ của tuổi trẻ Sài Gòn, và đều là “cơ sở” của Lê Quang Vịnh. Tôn Nữ Quỳnh Như, tên gọi ở nhà là Ngọc, là một tiểu thư con nhà danh giá, lại rất xinh đẹp, đài các, biết ăn diện đúng mốt thời thượng.

Quỳnh Như ước ao sau này sẽ trở thành một kiến trúc sư, nên sau này chị đã  vào học Đại học Kiến trúc Sài Gòn. Mỗi lần đến nhà thầy Dương Kỵ, Vịnh đều tìm cách gần gũi, nói chuyện với Quỳnh Như. Hai người rất tâm đầu ý hợp. Có lần vào dịp Tết, Lê Quang Vịnh đã đưa Quỳnh Như ra căn cứ ở rừng Sở Ớt, Củ Chi để học tập chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng và để bồi dưỡng Quỳnh Như vào Đoàn Thanh niên Cộng sản.

Tết đó hai người ở lại ăn Tết trong căn cứ. Dù khi họp phải bịt hết mặt, chỉ trừ hai con  mắt theo nguyên tắc giữ bí mật, nhưng tình cảm hai người đã nồng đượm lắm. Lê Quang Vịnh bảo Quỳnh Như là cô gái mà anh đã yêu thương, nhớ nhung thắc thỏm. Ngày nào cũng muốn gặp Quỳnh Như. Xa một ngày là nhớ. Qua ánh mắt, giọng nói, hơi thở, Vịnh biết Quỳnh Như cũng đang rất yêu mến mình.

Nhưng anh cũng như Quỳnh Như chưa bao giờ thổ lộ, thề thốt với nhau điều gì. Nên sau này, để giữ niềm thương yêu kính trọng hương hồn người đã khuất, anh Vịnh  vẫn thường bảo với mọi người: ”Đó là mối tình đơn phương của mình”. Mối tình đơn phương ấy chỉ còn lại là một vết sẹo hằn trong tim mỗi người.

Ngay sau khi bị tuyên án tử hình, ở trong ngục tử hình của nhà lao Chí Hoà, Lê Quang Vịnh đã viết  bài thơ “ Thư gửi người yêu” rồi tìm cách gửi ra cho Quỳnh Như. Bài thơ như những lời trối trăng mãnh liệt gửi đến người thân yêu nhất trước pháp trường, bị hành hình trên máy chém :

Em nhớ không ngày ấy còn trong năm sáu mốt
Còn bão tố đầy trời miền Nam đau xót
Trong một khu rừng hoa dại vàng tươi
Ta đón xuân giải phóng với bao người
Dù chẳng được nhìn nhau cho tận mặt
Dù chẳng dám hát ca vì còn kia lũ giặc...…
...Em nhớ không em vân vê tà áo mới nông dân
Màu quê hương cho em đẹp bội phần
Đêm giao thừa mình nghe thơ Tố Hữu
Nghe Bác Hồ chúc mừng xuân Tân Sửu...…
...Bên máy chém anh vẫn nhìn em bước
Cùng nhân dân đất nước hé môi cười.
    

Hình như gia đình ông bà Kỵ cũng biết mối tình của con gái mình với Lê Quang Vịnh, nên bao giờ cũng có ý vun vào. Khi Lê Quang Vịnh đã  nằm trong Chuồng cọp Côn Đảo, không biết lấy được địa chỉ Vịnh ở đâu, mà bà Huệ Phương, mẹ Quỳnh Như đã viết cho Vịnh cái thư gửi ra Côn Đảo.

Mở thư ra, Vịnh biết ngay là thư bà Kỵ vì bà ký tên thời con gái là Huệ Phương, bức thư viết lóng để che mắt địch: “…đầu mùa hè năm ngoái, chi mai của con bị bứng đi trồng ở lồng Thừa Phủ, đến mùa đông  thì chi mai của con bị trẩy rụi rồi đem nhốt vô cũi Ba Lòng. Giữa năm nay chi mai của con đã tháo cũi xổ lồng bay về rừng xanh núi biếc, phóng khoáng thênh thang…”. 

Lê Quang Vịnh đọc đi đọc lại bức thư mãi mới “dịch nghĩa” được là bà Kỵ báo tin chị  Mai bị bắt năm 1965, rồi bị đày ra Ba Lòng. Năm 1966  đã vượt ngục thành công ra vùng giải phóng. Sau đó  bà Huệ Phương còn viết cho Vịnh mấy lá thư  nữa, đều gọi Vịnh là “con” rất ấm áp, thân tình.

Năm năm sau, năm 1966, Trần Quang Long, một nhà thơ nổi tiếng của phong trào “xuống đường” đấu tranh của sinh viên Huế, quê gốc Kinh Bắc, sinh ra ở Huế, đã  có những câu thơ bốc lửa: “Con sẽ vót nhọn chông thành thơ/  Xuyên vào tim lũ giặc…” xuất hiện. Lúc đó Trần Quang Long đang dạy học ở Trường trung học Cường Để, Quy Nhơn.

Anh đã tổ chức cho cả ngàn sinh viên đi biểu tình và thành lập lực lượng “Bảo vệ Dân tộc Bình định” do anh làm chủ tịch. Cuộc đấu tranh của tuổi trẻ Quy Nhơn bị địch đàn áp dã man. Trần Quang Long bị đánh gãy chân và bắt. Gia đình phải lo lót để cho anh ra tù .

Ra tù Long đã chuyển vào Cần Thơ dạy học và trở thành Chủ tịch Hội Sinh viên sáng tác Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, rồi Ủy viên Mặt trận Liên minh Dân tộc Dân chủ Sài Gòn. Do tiếp xúc với thầy Tôn Thất Dương Kỵ, nên Long cũng gặp và yêu Quỳnh Như. Quỳnh Như lúc này đang là sinh viên Trường Kiến trúc Sài Gòn.

Vì 6 năm rồi, từ ngày  Vịnh bị án tử hình, Quỳnh Như không biết được tin tức gì về Vịnh cả. Ai cũng tin là Vịnh đã bị giặc thủ tiêu. Thế là, đầu năm 1967, Quỳnh Như  và Trần Quang Long làm lễ cưới. Sau Mậu Thân, địch phản công, Trần Quang Long thoát ra chiến khu. Địch bắt Quỳnh Như vào tù vì tội hoạt động chống chính quyền trong dịp Tết Mậu Thân. 

Ngày 11/10/1968, Trần Quang Long bị bom B52 hy sinh ở “R”, căn cứ của  Trung ương Cục miền Nam ở  rừng Tây Ninh. Quỳnh Như sinh con trai ở trong tù. Một năm sau ra tù, chị mới biết tin chồng hy sinh. Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975.

Lê Quang Vịnh kể rằng, năm 1971, ở trong Hầm Đá, anh bất ngờ nhận được  một lá thư của Quỳnh Như kèm theo bức hình và lá thư nhỏ có  mấy dòng chữ mới tập viết của bé Son (tên là Trần Xuân Thắng), con Quỳnh Như lúc này đã gần 4 tuổi. Vịnh bàng hoàng xúc động.

Quỳnh Như hỏi thăm tình hình sức khỏe anh Vịnh, khuyên anh cố gắng giữ gìn, rồi kể cuộc sống của mẹ con ở Sài Gòn. Thư viết rằng, khi anh bị công an đưa về Sài Gòn sau Tết Mậu Thân em vẫn biết, nhưng không vào thăm anh được…

Lá thư vẫn được chị Khánh, vợ anh Vịnh  lưu giữ, chữ viết li ti gần bốn trang giấy, nhưng đến hôm nay, đã hơn 36 năm vẫn đọc rất rõ. Chị  Như hẹn trong thư  rằng, lần này chỉ  gửi ảnh bé Son, còn lần sau “em sẽ chụp  tấm ảnh màu gửi cho anh, để anh biết em bây giờ ra sao!”. Sau đó anh Vịnh còn  nhận được vài lá thư nữa của Quỳnh Như. 

Tháng 5/1975, khi ra tù Côn Đảo, về lại Sài Gòn, Lê Quang Vịnh có  tìm đến nhà thăm mẹ con Quỳnh Như. Chị vẫn đẹp như xưa. Nhưng đã rắn rỏi hơn, đằm thắm hơn nhiều lắm. Có lúc Quỳnh Như cố tình xin phép ra khỏi  phòng để bé Son lại. Bé Son  sà vào lòng anh Vịnh, nũng nịu :” Bác Vịnh ơi, bác có thương Son, thương mẹ Như của Son không ?”.

Anh Vịnh cảm  động, vuốt tóc bé Son, nói trong nước mắt :”Bác thương mẹ Như của Son nhất. Khi bác xuống dưới đất rồi vẫn  thương Son, thương mẹ Như của Son”. 

Khi Vịnh đến thăm gia đình ông bà Tôn Thất Dương Kỵ, cả hai ông bà đều xúc động, mững rỡ. Thầy Kỵ ôm chầm lấy đứa học trò cưng nhất của mình, tay thầy cứ sờ nắn  bả vai, lưng, như kiểm tra xem bọn giặc tra tấn có làm mất đi cái xương nào của cậu học trò giỏi nhất của  mình không. Bà Kỵ rơm rớm nước mắt, đứng ngây người nhìn người tử tù thân thương của mình, như trong một giấc mơ. Mãi lâu bà mới nhớ ra, hối hả đi giục mọi người chuẩn bị cơm nước…

Thầy Kỵ có lần nói với Vịnh: “Từ lâu vợ chồng thầy coi em thân thiết như người nhà. Bây giờ em đã thoát khỏi ngục tù, vợ chồng thầy mong em sẽ trở thành người nhà vĩnh viễn của gia đình thầy…”. Lê Quang Vịnh hiểu ý muốn bé Sao, hiểu  ý của thầy Kỵ, anh suy nghĩ trăn trở bao đêm. Bây giờ nếu anh đồng ý, thì có thể Quỳnh Như sẽ “đi bước nữa” , sẽ “trở lại” với anh.

Nhưng còn hương hồn nhà thơ liệt sĩ Trần Quang Long thì sao ? Hơn nữa lúc đó anh đã yêu chị Khánh...Sau đó Lê Quang Vịnh ra Hà Nội học  trường Nguyễn Ái Quốc. Thời gian đó Quỳnh Như  có lần ra Hà Nội thăm anh và cũng đã biết anh Vịnh đã cưới vợ. 

Ba năm sau, năm 1978, anh nghe tin chị Quỳnh Như mất vì bệnh xơ gan cổ trướng. Ôi, hình như  hai người chưa được ông Tơ bà Nguyệt xe duyên, nên duyên tình chưa thể bén.  Âu cũng là cái số “hồng nhan phận bạc” ở đời!

Trong thời gian hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên những năm   60, 61 của thế kỷ trước. Lê Quang Vịnh còn “quen biết” một người con gái nữa , rất nổi tiếng. Đó là chị Trần Thị Lý. Trần Thị Lý, người nữ chiến sĩ kiên cường trong bài thơ ”Người con gái Việt Nam” của nhà thơ Tố Hữu:

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên 
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đồng?...

Nhà thơ Tố Hữu đã xúc động viết nên những câu thơ rất thật, rất thần: “Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt/ Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt/ Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh…”

Chị Trần Thị Lý  quê ở Gò Nổi, Kỳ Lam, bên dòng sông Thu Bồn, Quảng Nam. Hồi đó chị hoạt động bí mật ở Sài Gòn, làm công tác giao liên của căn cứ Khu ủy Sài Gòn ở Củ Chi.

Lúc đó Lê Quang Vịnh đang hoạt động công khai ở Sài Gòn. Trong một chuyến anh Vịnh ra bưng họp , chị Trần Thị Lý là người dẫn đường, hai người quen biết nhau. Trước khi anh Vịnh bị kết án tử hình, chị Trần Thị Lý đã bị địch bắt . Địch dùng đủ cực hình tra tấn vô cùng dã man đối với người con gái duyên dáng ấy “điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung”.

Một thời gian không đủ chứng cớ để buộc  tội, chúng phải thả tự do cho chị Lý.  Chị được tổ chức bí mật đưa sang Nông Pênh (Campuchia) rồi đi tàu bay ra Hà Nội chữa trị vết thương do địch tra tấn.  Chị Khánh, vợ anh Vịnh đã gặp chị Lý ở Hà Nội năm 1975, tức là Trần Thị Lý 16 năm sau. 

Chị Khánh kể: “Chị Trần Thị Lý là một phụ nữ rất đẹp. Tôi chưa thấy ai đẹp như thế,  đúng như nhà thơ Tố Hữu mô tả “Em là ai cô gái hay nàng tiên…” trong thơ. Vừa đẹp lại vừa dịu dàng, nhân hậu”. 

Tuổi tứ tuần mà còn đẹp vậy, chắc lúc trẻ chị Lý là một thiếu nữ xinh đẹp mê hồn. Lê Quang Vịnh là một nhà thơ, máu thi sĩ làm sao mà không bị lay động trước một giai nhân như thế? Từ đó, đã có một câu chuyện rất lãng mạn và rất thú vị về một  bức ảnh của Lê Quang Vịnh chụp thời trai trẻ.

Sau khi Lê Quang Vịnh và các đồng đội bị toà án  ngụy quyền  Sài Gòn tuyên án tử hình, các báo ở Hà Nội tới tấp đăng bài phản đối  bản án, tố cáo  nguỵ  quyền Sài Gòn đàn áp trí thức, sinh viên học sinh. Nhưng các báo đều không có một tấm ảnh nào  của giáo sư Lê Quang Vịnh cả. May thay, Thủ tướng Phạm Văn Đồng mới nhớ ra là người nữ chiến sĩ Trần Trị Lý đang chữa bệnh ở Hà Nội đã có lần khoe với mình tấm ảnh Lê Quang Vịnh.

Nhờ chị Lý giữ tấm ảnh, và nhờ trí nhớ tuyệt vời của Bác Đồng,  các báo đến chỗ chị Lý  mượn ảnh. Nhờ đó, ảnh Lê Quang Vịnh mới được đăng lên báo, làm xúc  động người đọc cả miền Bắc. Anh Vịnh kể với phóng viên Vi Ân, báo Giáo dục và Sáng tạo của Sở Giáo dục-Đào tạo  thành phố  Hồ Chí Minh trong bài “Chuyện một nhà giáo tử tù” .

Vi Ân viết: “Bức ảnh ấy là ảnh anh Vịnh chụp cuối  những năm 50 thế kỷ trước  để làm thẻ sinh viên. Một lần ra bưng họp, Lê Quang Vịnh có mang theo tập ảnh gia đình trong người, trong đó có bức ảnh ấy. Anh Vịnh có đưa cho các bạn gái trong bưng xem. Tấm ảnh đó đã bị (được?) một người “ém nhẹm” cho riêng mình mà anh không hay. Sau đó anh bị bắt…”(số báo ra ngày  4/5/2000). Câu chuyện đó có vẻ rất khách quan và đơn phương lắm.

Nhưng điều quan trọng là chị Trần Thị Lý khi ra chữa bệnh ở Hà Nội đã giữ  khư khư tấm ảnh ấy như một báu bật của đời mình. Chị Lý  đã có lần khoe với bác Phạm Văn Đồng và cả bác Tôn Đức Thắng rằng, người trong tấm ảnh  là “ giáo sư Lê Quang Vịnh, là người yêu của cháu”. Trần Thị Lý đã đề vào sau bức ảnh kỷ niệm mối tình của mình câu: “Chờ anh mãi mãi, âm thầm chờ anh- Đạo Tĩnh”.

Đạo Tĩnh là biệt hiệu của Trần Thị Lý khi hoạt động ở Củ Chi. Thời gian chị đề câu ấy vào tấm ảnh là  tháng 4/1961, lúc chưa bị địch bắt. Lúc đó anh Lê Quang Vịnh cũng chưa bị bắt.  Một người con gái, có thể yêu mê mệt một chàng trai nào đó, nhưng rõ ràng khi chưa hò hẹn, thì có thể  đề câu “chờ anh mãi mãi” được không ? Có lẽ đây là tình yêu của sự hò hẹn. Và đó  mới chính là vẻ đẹp của  những tâm hồn trong sáng, cao thượng của những tấm lòng cách mạng thủy chung.

Đó là một “cú sốc tình cảm” lớn đối với Lê Quang Vịnh vì anh không ngờ mình gặp lại “người đẹp quen biết cũ”, trong  lúc đã có vợ sắp cưới là Trần Thị Kim Khánh. Chị Kim Khánh còn kể cụ thể hơn rằng, trước đó chị Lý đã yêu một người cháu của cụ Tôn Đức Thắng tên là Tuấn . Khi gặp lại tử tù Lê Quang Vịnh ở Hà Nội, thì chị đã xin lỗi người yêu... !

Oái oăm là chị Lý  lúc đó lại nằm Bệnh viện Việt Xô, ngay cạnh phòng mà anh Vịnh đang điều trị. Ngày  nào anh Tuấn cũng bới cơm cháo đến cho chị Lý, bên này, ngày nào  chị Khánh cũng mang cơm đến cho anh Vịnh. Thời gian này, tử tù Lê Quang Vịnh kiên gan suốt 15 năm trong lao tù ngục tối của địch,  đã phải hoang mang bối rối trước rắc rối tình cảm. Anh đã có lần nói với chị Khánh rằng: “Thôi em đừng đến với anh nữa. Đàn bà rắc rối quá !”.

Rồi anh lại viết cho Khánh một lá thư dài, thanh minh, năn nỉ. Chị Trần Thị Kim Khánh rất yêu thương anh Vịnh, nên đã bảo với mọi người rằng: “Đối với anh Vịnh, tôi nguyện làm một Thaia, vì tình yêu đối với người chiến sĩ kiên cường mà hàng ngày đẩy xe lăn chăm sóc Paven Corsaghin bị liệt phải nằm một chỗ trong sách “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nga Xô- Viết N. Ốxtơrốpxki sau những người yêu cũ của  Paven như Tonhia, Rita “.

Mối tình nồng nàn Lê Quang Vịnh- Trần Thị Kim Khánh đã hóa giải được tất cả những rắc rối do thời gian và lịch sử để lại của thời “hậu chiến” . Nghe những câu chuyện ấy, anh  Vịnh vẫn cười nói với tôi :” Đó chỉ là tình yêu đơn phương phía  Lý”.  

Chị Khánh còn kể, sau đám cưới Vịnh-Khánh, trước khi đi chữa bệnh ở Đức, chị Trần Thị Lý còn mời chị Khánh đến  nhà, nắm tay thân tình, rưng rưng nước mắt nói :”Thôi chị đi đường chị, chị nhờ em chăm sóc anh Vịnh”. 

Chị Lý  sau đó vẫn lấy anh Tuấn cháu họ Bác Tôn. Khi Đà Nẵng thành lập trường đại học, anh là giảng viên Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Hai anh chị  có một đứa con gái. Năm 1992, chị mất vì  bệnh tật ở thành phố Đà Nẵng.

Tình yêu là chuyện riêng của mỗi người, nhưng nó cũng là chuyện của  đất nước một thời. Những câu chuyện tình của Lê Quang Vịnh không còn là của riêng anh, mà là của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam đã dấn thân vì Tổ quốc...

Sự tình còn nhiều hấp dẫn. Chị Trần Thị Kim Khánh kể tôi nghe câu chuyện xúc động. 

Sau khi thoát khỏi Chuồng cọp Côn Đảo ngày 1/5/1975, Lê Quang Vịnh được bổ nhiệm làm Phó giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1975, anh cùng với đoàn 100 tù nhân Côn Đảo ra thăm miền Bắc. Anh được mời nói chuyện về đề tài “Côn Đảo- hòn đảo địa ngục” tại cơ quan Ủy ban Trung ương Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam . Hội trường chật ních trên  hai ngàn người nghe.

Trong số người đến dự nghe cuộc nói chuyện hôm đó có một người  phụ nữ xinh đẹp. Đang nửa chừng, khi người ta giới thiệu người nói chuyện hôm nay là “Giáo sư Lê Quang Vịnh, tử tù Côn Đảo”, người con gái ấy bỗng nhiên tái xám mặt mày, rồi ngất xỉu. Cuộc nói chuyện phải dừng lại.

Ngừơi ta xin lỗi diễn giả Lê Quang Vịnh, rồi  bế người con gái ra phía sau hậu trường, xoa dầu, bấm huyệt. Khi tỉnh lại, điều chị nói làm mọi người ngạc nhiên :” Tôi là Trần Thị Lý và  người nói chuyện  là Lê Quang Vịnh, người yêu của tôi ! Ôi, người yêu tôi đã về!”. Rồi chị lại ngất xỉu, nước mắt giàn giụa.

(Còn tiếp)

MỚI - NÓNG
Cảnh báo 'sốt ảo' đất vùng ven Hà Nội, hành vi chiếm đất bị phạt đến 1 tỷ đồng
Cảnh báo 'sốt ảo' đất vùng ven Hà Nội, hành vi chiếm đất bị phạt đến 1 tỷ đồng
TPO - Đất nền vùng ven Hà Nội tăng giá, chuyên gia cảnh báo 'sốt ảo'; Chủ đầu tư dự án bất động sản nợ thuế, loạt lãnh đạo bị tạm hoãn xuất cảnh; Lãnh đạo 'xộ khám', loạt dự án bất động sản thay tên đổi chủ; Chiếm đất, hủy hoại đất bị phạt đến 1 tỷ đồng... là những thông tin hot về BĐS đáng chú ý tuần qua.