Hệ thống phân phối hàng hóa ở Nhật Bản

Hệ thống phân phối hàng hóa ở Nhật Bản
Dân số Mỹ gấp 2,1 lần, diện lích lớn gấp 25 lần Nhật Bản, vậy mà Nhật Bản hiện có 1,6 triệu cửa hàng bán lẻ trong khi tại Mỹ chỉ là 1,5 triệu.

Nhiều cửa hàng bán lẻ với mật độ rất dày đặc và quy mô nhỏ, Nhật Bản thường sử dụng trung bình từ 1-49 nhân viên và cứ một ngàn dân sẽ có khoảng 13 cửa hàng. Tỷ lệ này cao hơn hẳn khi so với các nước khác, như ở Pháp chỉ là 8,7; Đức - 6,6; Mỹ - 6,5 và Anh - 6,1.

Cửa hàng bán lẻ và hệ thống phân phối

Các cửa hàng bán lẻ nhỏ thường tập trung ở các vùng đông dân cư và kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, may mặc và các loại hàng hóa tiêu dùng khác. Vì là nhỏ nên có đặc điểm tiện lợi và dịch vụ tốt.

Ngoài ra, ở Nhật Bản các cửa hàng bách hóa lớn và các siêu thị cũng làm nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ, nhưng chính hiệu quả kinh doanh của các siêu thị này lại không cao do thiếu tính linh hoạt, nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng giảm sút.

Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà. Doanh số của loại bán hàng này không lớn lắm, nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây.

Trong hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản, từ khi hàng được sản xuất ra và khi giao đến các cửa hàng bán lẻ tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian, nhiều hơn so với các nước công nghiệp phát triển khác.

Nhật Bản có khoảng hơn 430 ngàn cơ sở bán buôn, cứ trung bình khoảng 34 cơ sở bán buôn cho 10.000 dân cư. Nếu tính quan hệ từ nhà sản xuất đến người bán lẻ, thì trung bình có 2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và người sản xuất, cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ.

Do đó, một hàng háng ở NB thường phải trải qua nhiều nấc trung gian và phải đi một quãng đường dài hơn. Trong hệ thống phân phối, các nhà buôn rất quan trọng vì họ có quan hệ mật thiết với các nhà bán lẻ.

Thông qua các chnh sách chiết khấu hoa hồng và mua lại hàng hóa các nhà sản xuất có thể kiểm soát được giá bán lẻ và duy trì được hệ thống phân phối hàng hóa bán lẻ.

Tại Nhật Bản, người tiêu dùng có thể trả lại các loại hàng hóa như may mặc, sách báo và dược phẩm. Tất nhiên, hàng hóa đó phải còn nguyên mác, dán tem. Đối với chính sách chiết khấu hoa hồng, Nhật Bản thực hiện nhiều loại chiết khấu và được chiết khấu thường xuyên, chứ không phải chiết khấu vào lúc thanh toán tiền hàng như ở châu Âu.

Kết cấu chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối

Các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn và các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ, thực hiện chế độ định giá bán lẻ, chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, chế độ các nhà sản xuất sẵn sàng mua lại hàng hóa nếu không bán được và các nhà bán lẻ chỉ kinh doanh những mặt hàng đó do các nhà bán buôn và các nhà sản xuất giao.

Theo nhận định của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hóa ở Nhật Bản vẫn bộc lộ một số nhược điểm. Hệ thống phân phối hàng hóa khép kín qua nhiều tầng nấc làm cho giá hàng hóa tăng giá khi tới tay người tiêu dùng.

Gía bán lẻ của Nhật Bản trung bình cao hơn ở Mỹ là 48%, ở Anh là 55%; không kích thích các cửa hàng bán lẻ nỗ lực cải tiến nâng cao hiệu quả kinh doanh, hạ giá sản phẩm; duy trì số lượng cửa hàng bán lẻ đông đảo không hiệu quả; không minh bạch về định giá sản phẩm; hạn chế sự thâm nhập thị trường Nhật Bản của các Cty nước ngoài.

Hơn nữa, hiện nay Nhật Bản đang đối đầu với hai luồng quan điểm nới lỏng quy định về phân phối hàng hóa và bảo vệ duy trì hệ thống cũ. Nhật Bản chịu sức ép của nước ngoài, không cho hàng hóa nhập khẩu vào thị trường của họ, trong khi các quan chức Nhật Bản lại lên tiếng ủng hộ duy trì hệ thống phân phối cũ (duy trì khía cạnh văn hóa, không phải lái xe tới các siêu thị xa xôi...).

MỚI - NÓNG