Nỗi niềm Nguyễn Huy Tưởng

Nỗi niềm Nguyễn Huy Tưởng
TP - “Nguyễn Huy Tưởng với Hà Nội” là tên hội thảo sáng 24-9 ở Hội Nhà văn VN nhân 50 năm ngày mất của nhà văn “Sống mãi với Thủ đô”. Tiền Phong trích giới thiệu tham luận của nhà phê bình Vũ Quần Phương, đề cập tâm sự của Nguyễn Huy Tưởng về thiên chức nhà văn cũng như nỗi niềm đối với Hà Nội - mà nửa thế kỷ sau vẫn còn nguyên tính thời sự.
Cuốn sách về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Cuốn sách về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.

Tôi coi kịch bản Vũ Như Tô là tác phẩm quan trọng nhất trong giai đoạn sáng tác đầu đời, trước 1945, của Nguyễn Huy Tưởng. Vở kịch hàm chứa mối trăn trở ngàn đời của người nghệ sỹ: Khi điều kiện tồn tại của nghệ thuật không thuộc về nhân dân thì nghệ thuật đi về đâu. Nếu đi với nhân dân, như ý định đầu tiên của nhà kiến trúc và xây dựng Vũ Như Tô, thì sẽ không có Cửu trùng đài, không có chỗ cho nghệ thuật xuất hiện.

Vũ Như Tô đã theo lời khuyên của Đan Thiềm: Nghệ thuật chịu lụy cường quyền một thời để được xuất hiện và tồn tại vĩnh cửu với mai sau. Đó cũng là ứng xử của những họa sỹ Ý nổi tiếng thời Phục hưng đối với những đòi hỏi hà khắc của giới tăng lữ giàu có.

Lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô có mười câu, thì tới hai câu, ông dành để nhắc lại một câu hỏi: Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải? Hai lần hỏi nhưng vẫn không lời đáp. Hình như đến nay câu hỏi vẫn còn nguyên đó. Nguyễn Huy Tưởng đã có sự chọn lựa lời đáp cho riêng mình. Ông chọn lựa vì không thể lẩn tránh.

Với người nghệ sỹ, sống đồng nghĩa với việc trả lời câu hỏi này. Nhưng chọn mà không tự tin. Ông chưa dám lấy hành động Vũ Như Tô làm câu khẳng định do cái kết cục bi thảm của Vũ Như Tô. Tự hỏi là một cách mình nhủ với mình. Và rồi, như tự thú: Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm.

Nguyễn Huy Tưởng chọn lối ứng xử của Đan Thiềm, của Raphael, Miken Lăng. Ông không coi đó đã là giải pháp tối ưu, dù khung cảnh lịch sử hiện đại đã xa khác lắm với thời Lê Tương Dực. Khác xa, nhưng hiểm họa vẫn còn. Nguyễn Huy Tưởng coi chọn lựa của mình chỉ như triệu chứng bệnh lý của nghề nghiệp, nghề yêu cái đẹp. Làm nghề ấy thì phải mang bệnh ấy. Như một nỗi đau của tổ nghề truyền.

Đồng dạng với bi kịch Vũ Như Tô, còn bao nhiêu thảm án “Ngục văn tự” của nhân loại. Nỗi đau này chẳng của riêng ai. Càng không phải của một thời. Vở kịch lịch sử viết năm Nguyễn Huy Tưởng 30 tuổi đã đụng đến chiều sâu bản chất của chức năng nghệ thuật và lương tâm nghệ sỹ.

Tôi xin nói tới một ghi chép như một bài báo, ròng ròng chất hiện thực đời sống thanh thiên bạch nhật và những trăn trở nội tâm chân thực, đau xót và đầy cố gắng của ông, bài Một ngày chủ nhật viết tháng 5-1956.

Cái năm 1956 ấy, người dân miền Bắc nước ta đang say mê trong niềm vui thắng Pháp ở Điện Biên Phủ và ở Hội nghị Genève, đang phấn chấn và tự hào sống dưới bầu trời độc lập tự do với niềm tin mênh mông vào cuộc sống hạnh phúc do chính tay mình sẽ tạo dựng… thì cũng có những nỗi đau ập đến do một số sai lầm trong cải cách ruộng đất (Bác Hồ đã phải nhận định là tay phải ta chặt vào chính tay trái của ta).

Rồi biến cố chính trị ở một số nước anh em. Và trong cuộc sống thường ngày, những điều trông thấy… Ngày lại ngày, những gì tốt đẹp cứ hao hụt dần. Những hao hụt ấy, cứ từng chút, từng chút, nhỏ bé thôi, người ta có thể chậc lưỡi, cho qua. Đã chết ai đâu! Nhưng Nguyễn Huy Tưởng thì thật sự lo âu.

Là một cán bộ lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản từ chiến khu Việt Bắc trở về, Nguyễn Huy Tưởng chắc chắn có đủ niềm tin và lòng vui như mọi cán bộ lãnh đạo khác. Ông hẳn thừa biết đâu là hệ quả tất yếu của cuộc đổi thay một thành phố tạm chiếm, “ăn bám” sang cuộc sống một thành phố lao động tự nuôi mình. Nhưng trong cảm quan bản năng của người nghệ sỹ Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng, “chín năm ròng lòng vẫn thủ đô” vẫn có một năng lực nắm bắt chân thực và rất nhạy thực tại đời sống Hà Nội.

Một nhận xét nhỏ, ông thấy những người đi ngoài phố trong ngày chủ nhật ấy: Quần áo phần lớn màu tối, lạnh và khắc khổ, đồng loạt kiểu cán bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc. Biết tiếc những sắc màu đặc trưng của Hà Nội chính là một phẩm chất văn hóa tinh tế và sâu sắc của người cán bộ này. Một tâm sự thành thật như tự thú, một đấu tranh nội tâm đầy trách nhiệm. Đầy trách nhiệm nên mới vượt qua lo âu cho bản thân.

Vả lại Nguyễn Huy Tưởng, ở một cấp độ nào đó cũng là một thành tố cầm quyền. Ông muốn biện hộ những “xuống cấp” của cuộc sống mới, khi đứng ngắm Hồ Gươm. Nhưng ông lại muốn hơn một cái nhìn trung thực, tìm đúng bệnh của mình, để chữa: Tôi vốn yêu hồ vì cảnh đẹp, và cũng vì nó mang dấu vết của người anh hùng yêu nước mà trước đây tôi đã có ý ngợi ca.

Nhưng Hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng về, bày vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh các nước bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín, và bé lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi. Tôi khâm phục sự lo âu rất sớm của nhà văn về cái hiện tượng hầu như không có ai chăm sóc ở mọi công trình xã hội.

Ông còn viết: Chúng ta muốn đổi mới cho mau đến nỗi chúng ta muốn bỏ hết. Đến cả tên của nhiều làng, rất Việt Nam mà cũng rất thi vị, người cán bộ cũng bỏ đi, thay bằng những danh từ mang tính chất tuyên truyền chính trị. Không phân biệt được làng nào với làng nào với những tên đồng loạt: Tiến bộ, Hạnh phúc, Quyết tâm, Quyết tiến… rất ít âm hưởng trong lòng người.

Có nơi còn rục rịch thay những tên xóm nôm na bằng những con số! Những niên hiệu các triều đại ghi trên hoành phi, câu đối của một ngôi đình cổ kính bị xóa đi bằng vôi trắng. Trên mặt tấm hoành phi treo giữa một ngôi chùa gần Hà Nội, người ta dán lên khẩu hiệu: Đảng Lao động Việt Nam muôn năm. Các đồng chí có biết không? Trong khi các đồng chí làm những việc kỳ dị ấy, thì Đảng lo khôi phục chùa Một Cột, kéo lại chuông lên gác chùa Keo. Hình như nhiều cán bộ quan niệm rằng cách mạng là xóa bỏ tất cả cái gì là quá khứ, là di tích, coi là phong kiến tất. Đừng đi quá nữa.

Cuộc đời không phải chỉ có cách mạng, mà còn có lịch sử, còn có cái âm vang truyền qua các thời đại, những cái bây giờ tưởng là không dùng nữa, nhưng không có thì cuộc đời trở thành trơ trẽn, lạnh lùng. Thật trớ trêu, Nguyễn Huy Tưởng đã bị phê bình nặng nề vì cách nhìn, cách nghĩ này.

Theo quan sát mà tôi đã có về giới văn chương nước ta, tôi dám chắc hồi ấy, nhiều nhà văn đàn anh, đàn chị của chúng ta cũng có tâm bệnh giống Đan Thiềm. Nhưng cái câu hỏi đồng dạng với câu hỏi mà Nguyễn Huy Tưởng đã hai lần nhắc lại trong Đề tựa cho kịch Vũ Như Tô: “Chẳng biết Nguyễn Huy Tưởng phải hay những kẻ phê Nguyễn Huy Tưởng phải?” thì không thấy ai cất lên thành tiếng.

Hôm nay, ôn cố để tri tân. Biết thời ấy, biết thế ấy, không ai nỡ trách các nhà văn hồi ấy. Nhắc lại chỉ cốt thấy được một mạch tư duy xuyên suốt đời văn Nguyễn Huy Tưởng. Từ buổi đầu cầm bút đến chặng cuối đời. Mạch nhìn, mạch nghĩ ấy đưa ta đến một chiêm nghiệm của nhà văn: Dám tin vào mắt mình và phải tự mình nghĩ ngợi, nghĩ ngợi từ chính sự thực mình thu nhận, mà tìm ra nhận định, tìm ra giải pháp.

Và chân thành cất lên thành tiếng.

MỚI - NÓNG