Cuộc chơi ngôn ngữ trong 'Những ngã tư và những cột đèn'

Nhà văn Trần Dần
Nhà văn Trần Dần
TP - Chưa khi nào Trần Dần thể hiện như một người viết chịu nhượng bộ, chịu thỏa hiệp với các chuẩn mực đang có.

> Nhật kí, lem nhem mực tím*
> Kinh ngạc Trần Dần văn xuôi

Nhà văn Trần Dần
Nhà văn Trần Dần .
 

Trần Dần là một trong số ít, rất ít, những nhà cách tân lớn của văn chương Việt Nam thế kỷ XX. Phẩm chất nhà cách tân của ông, trước hết và quan trọng nhất, biểu hiện ở ý thức phản kháng thường trực, liên tục trước tất thảy những quy phạm nghệ thuật đang đóng vai trò cái chính thống, cái phổ biến trong nền văn chương đương đại.

Kể từ thời hoạt động trong nhóm thơ Dạ đài (cùng với Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch), tới giai đoạn kháng chiến chống Pháp, rồi trải qua ba mươi năm bị gạt ra bên lề đời sống văn nghệ (nhờ đó mà được tấn phong là “thủ lĩnh trong bóng tối”), chưa khi nào Trần Dần thể hiện như một người viết chịu nhượng bộ, chịu thỏa hiệp với các chuẩn mực đang có.

Bằng sáng tác của mình, ông gây hấn, ông tấn công và đập phá không thương tiếc những đường biên nghệ thuật tưởng đã rất sâu gốc bền rễ. Để kiến tạo những đường biên nghệ thuật mới. Phẩm chất “kẻ sáng tạo” (mượn chữ của Nietzches) ở Trần Dần dễ nhận thấy nhất trong lãnh địa thi ca.

Nhưng với tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn- Trần Dần viết xong năm 1966, đầu năm 2011 mới được Cty Nhã Nam và NXB Hội nhà văn công bố- người đọc lại một lần nữa phải ngạc nhiên bởi năng lực đa dạng của “kẻ sáng tạo” ấy, ít nhất là ở phương diện: Trần Dần cũng không “buông tha” cho văn xuôi, và ông đã đẩy ngôn ngữ văn xuôi hư cấu vào một cuộc thử nghiệm lạ lùng.

Nếu xét về cốt truyện, cách xây dựng nhân vật hay nghệ thuật trần thuật, đọc Những ngã tư và những cột đèn ở thời điểm này không khiến ta thấy lạ (mặc dù đó vẫn thực sự là thứ của hiếm trong văn chương Việt Nam những năm 1960, thậm chí 1970). Nhưng nếu xét về nghệ thuật ngôn ngữ, đoan quyết là đến tận bây giờ cũng ít ai làm giống như Trần Dần.

Câu văn xuôi của Trần Dần ở tác phẩm tiểu thuyết này là kiểu câu rất hiếm gặp trong văn xuôi Việt Nam từ thời có chữ quốc ngữ tới nay. Không phải kiểu câu biền ngẫu như trong văn của Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách hay Nhất Linh (giai đoạn viết Nho phong).

Không phải kiểu câu cụt lủn, cộc lốc của Hoàng Tích Chu. Không phải kiểu câu rõ ràng khúc chiết, mềm mại uyển chuyển của Thạch Lam (mô phỏng ngữ pháp Pháp văn, và có lẽ chính là mẫu hình phổ biến nhất của câu văn tiếng Việt hiện nay).

Cuộc chơi ngôn ngữ trong 'Những ngã tư và những cột đèn' ảnh 2
 

Thử lấy vài câu làm ví dụ. 1: “Không biết, tôi đã đọc ở đâu, một í kiến về thời gian, như thế này: hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG” (tr14). 2: “Bởi vì, không có tờ thú, ông Trung trố vẫn nắm được hết, mọi chi tiết tôi làm, từ trước rồi” (tr149). 3: “Khi gặp đầu mối, mọi chỉ thị và tiền thưởng, tôi đều giấu sẵn, trong những đồ vật thích hợp, với từng hoàn cảnh” (tr250). (Tôi chỉ lấy ba ví dụ, nhưng thực tế là những câu như thế này ken kín, dày đặc trong tác phẩm, chúng xuất hiện ở tất cả các trang).

Người đọc không cần tinh ý lắm cũng có thể nhận thấy cái lạ ở ba câu này: đó là những dấu phẩy. Nếu xóa bỏ bớt các dấu phẩy đó, câu văn của Trần Dần sẽ có được diện mạo quen thuộc với người đọc, và cũng không bị mất nghĩa. Nhưng, bằng những dấu phẩy này, Trần Dần đã tạo được nhịp điệu riêng, “không giống ai”, cho câu văn của mình.

Một nhịp điệu không bằng phẳng, không cân đối. Nó trúc trắc, gập ghềnh, xô lệch, đầy sự bất ngờ và đầy nỗi bất an, đúng với “tinh thần” của một cuốn tiểu thuyết trinh thám.

Không nên quên cái thực tế rằng Trần Dần là một nhà thơ, một người thơ, trong suốt cuộc đời cầm bút đầy sóng gió của ông. “Chơi” với nhịp điệu, thực ra đó là công việc của nhà thơ nhiều hơn nhà văn xuôi. Và nhịp điệu, ở Những ngã tư và những cột đèn, là cái không chỉ được tạo ra bằng những dấu phẩy “thừa” trong câu. Nó còn được tạo ra bằng sự lặp lại.

Sự lặp lại dễ nhận ra nhất, xét ở cấu trúc tổng thể của tác phẩm, là câu: “Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím”. Còn có một kiểu lặp lại khác ở một đôi chỗ trong Những ngã tư và những cột đèn. Không phải lặp lại gián cách, mà lặp lại liên tục giữa các bộ phận của câu và giữa các câu liền kề nhau trong một trường đoạn.

Ví dụ: “Lác đác người đi làm sớm. Lác đác xe đạp bộ hành, là xe đạp thu, là bộ hành thu, là lác đác thu. Tôi nghe tiếng người, chào nhau trong phố. Tôi chào những người quen đi qua tôi, những người không quen đi qua tôi. Tôi nghe tiếng người, hỏi nhau bây giờ làm gì. Tôi nghe tiếng người, trả lời bây giờ làm gì” (tr192, 193).

Và: “Đời tôi đã rẽ rồi. Như đã hạ nước cờ không sao đi lại được. Nhưng tại sao tôi cứ ám ảnh: cái ngã tư tại sao ấy. Tôi quên không được. Đi đi không được. Tôi ngồi bệt lề đường. Tôi là đàn ông: tôi không đau khổ. Nhưng tôi muốn khóc. Tôi là đàn ông: tôi không khóc. Nhưng tôi đau khổ lắm” (tr275).

Sự lặp lại liên tục của các từ, các cụm từ, các cấu trúc câu đã tạo nên sự cộng hưởng về âm cho đoạn văn, tạo nên nhịp điệu, tạo nên nhạc tính. Những chỗ như vậy, dường như tác giả đã giảm thiểu chức năng trần thuật của câu văn xuôi - nó không để kể hoặc tả một đối tượng cụ thể- nhưng lại gia tăng sức biểu cảm cho cái điều mà không phải bao giờ và không phải người viết nào cũng dễ dàng thể hiện: tâm trạng của nhân vật trong những bối cảnh khác biệt.

Ai đó đã từng cảm khái trước sự kiện Trần Dần bị gạt ra bên lề đời sống văn chương suốt mấy chục năm. Nhưng biết đâu đó lại chẳng là một cơ may cho ông: chính sự tồn tại “bên lề” ấy khiến ông có thể yên tâm đi con đường riêng của mình, viết theo xác tín nghệ thuật của mình, khỏi phải lo đến việc tác phẩm mình viết ra có là món ăn hợp với khẩu vị của người đương thời hay không?

Hội Nhà văn Hà Nội vừa công bố những tác phẩm văn xuôi, thơ và tác phẩm dịch đoạt Giải thưởng văn học năm 2011. “Những ngã tư và những cột đèn” - của nhà văn Trần Dần đã đoạt giải hạng mục tiểu thuyết. Ngoài ra còn có “Những kỷ niệm tưởng tượng” - tập thơ của Trương Đăng Dung; “Olga Berggolts của tôi” tác phẩm dịch của Thụy Anh.

 
Theo Báo giấy
MỚI - NÓNG