Phim "Cỏ lông chông": Sao không hỏi dân trồng chè?

Phim "Cỏ lông chông": Sao không hỏi dân trồng chè?
TP - Quan sát các hình ảnh trên phim, thấy anh Hạo (nhân vật chính trong phim) thâm canh chè chẳng giống ai! Công cụ sản xuất của anh độc cái cuốc bàn, lưỡi to, nhà nông thường dùng vỡ đất vùng chiêm trũng, chứ không thấy ai dùng nó để cuốc hố trồng chè hay làm cỏ chè.

Anh Hạo (nhân vật chính trong phim), bị đi tù (oan). Ra tù, không nghề nghiệp, không tiền bạc, nhưng anh quyết tâm làm giàu, “xây cái nhà to bằng mấy nhà chúng mày!”(lời nhân vật). “Chúng mày” là vợ chồng gã đồng nghiệp và người yêu cũ - những kẻ đã phản bội anh.

Cách trả thù những kẻ phản bội của anh Hạo thật cao thượng: Làm giàu bằng sức lao động, bằng nghề trồng chè! Nhưng chẳng biết anh huy động vốn liếng, nhân công ở đâu mà mới ra tù mấy tháng đã có đồi chè tốt tươi, rộng mênh mông; thu hoạch lứa đầu mang bịch tiền đi mua vàng, ăn nói bặm trợn như một gã đào vàng trúng “ục” vậy?

Quan sát các hình ảnh trên phim, thấy anh Hạo thâm canh chè chẳng giống ai! Công cụ sản xuất của anh độc cái cuốc bàn, lưỡi to, nhà nông thường dùng vỡ đất vùng chiêm trũng, chứ không thấy ai dùng nó để cuốc hố trồng chè hay làm cỏ chè.

Vào mùa đông, gặp rét hại, anh Hạo hốt hoảng lo chè bị thất thu do sương muối, vội bỏ cô bạn gái một mình lao đi trong đêm. Không biết khi đó anh Hạo đi đâu? Làm cách nào? Lấy cái gì để che chắn sương muối, bảo vệ cho cả vùng chè rộng lớn như vậy?

Mà lạ, cái sương muối vùng miền núi nó buốt giá  ghê gớm nhưng các nhân vật trong phim của cảnh này vẫn mong manh áo cộc tay mới khiếp!

Người viết bài này có hơn  mười năm sống với đồng bào vùng chè Thái Nguyên, thấy rằng, cái nghề trồng chè thật vất vả, cơ cực! Gia đình nào có được đồi chè như đồi chè của anh Hạo là phải đổ không biết bao là công sức, tiền bạc.

Có được đồi chè rồi cũng không thể ngồi đấy hốt bạc, mà  phải thuê mướn lao động để làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch, cúp tỉa… Người  khỏe mạnh, thạo việc, cả ngày trầy trật trên đồi chè may ra chỉ hái được vài chục cân  búp tươi, sau đó qua nhiều công đoạn chế biến mới có đươc mấy túi nilon chè búp, giá trị hơn két bia lon.

Một vụ chè, trừ các khoản chi phí, còn lại không đáng là bao;  giá trị lao động của người trồng chè rẻ mạt chứ không thể kiếm tiền nhanh, nhiều như anh Hạo trong phim!

Xem phim, chúng tôi thấy tủi thân thay cho những người dân trồng chè và tiếc. Tiếc rằng, bộ phim có lượng khán giả đông như thế (khán giả truyền hình); đoàn làm phim tập hợp những nghệ sỹ nổi tiếng như thế; cả đoàn lại cất công lên tận vùng chè làm phim, sao không tiện thể hỏi những người dân trồng chè xem ở đấy họ làm ăn, sinh sống thế nào để bắt  chước mà diễn! 

 Cao Thâm
Tạp chí Than Việt Nam, 226 Lê Duẩn-Hà Nội

MỚI - NÓNG