Tựa lưng vào núi

Minh họa: Minh Thu.
Minh họa: Minh Thu.
TP - Làng Bồ Bản nằm bình yên tách biệt dưới chân dãy núi đá vôi, những dải núi nối nhau chạy xa tít tắp. Suốt bao nhiêu năm chỉ duy nhất cây giàng giàng là sống được, loại cây khẳng khiu tích cóp từng giọt mưa mạch nước nuôi mình. 

Mùa đông khi rơm rạ đã hết, dân làng mấy xã xung quanh kéo nhau lên núi gồng gánh giàng giàng, không cần phơi, cắt xuống hơi se se là đượm lửa. Nhà nhà san sát nhau nằm thảnh thơi, lưng tựa vào khối thiên nhiên vững chãi, bên hông nhà trồng đầy chè bụi, cứ mỗi dịp cuối đông là hoa trắng bung mình. Con đường duy nhất dẫn vào làng hai bên đường mênh mông ngô lúa. Lũ trẻ đi học về vừa đi vừa hát. Nước giếng núi trong văn vắt, con gái làng uống nước ấy giọng trong như ngọc thảy mâm vàng, da tóc thơm như hoa cau non, con trai khắp xã trong huyện nhiều người ao ước.

Nhưng đấy là chuyện xưa kia.

Người ta đấu thầu núi đá vôi, đêm ngày gì cũng kề khoan vào mỏ đá, bộc phá đặt vào bụng núi, những tiếng nổ khủng khiếp rung gầm trời. Người ta xẻ núi, vét những rãnh sâu dẫn từ ngọn xuống chân núi để chuyển đá làm xi măng. Mấy dải núi tan hoang, bụi bay mù mịt, tiếng động cơ xe tải, tiếng nổ mìn, tiếng máy khoan đinh tai nhức óc. Phải để ý lắm mới thấy giữa những thanh âm chát chúa và hỗn tạp tiếng của con người thật yếu ớt và đáng thương. Người ta nói với nhau như hét, những câu ngắn ngủn và cộc lốc. Trai tráng trong làng và mấy làng bên dồn đến lái xe, chuyển đá, việc nặng nhưng công cao.

Làng bắt đầu thay da đổi thịt, những ngôi nhà cao tầng bắt đầu mọc lên, người ta đua nhau sắm ti vi dàn máy. Cánh đồng mênh mông bây giờ trơ gốc rạ, bụi đá bàng bạc choàng lên mọi vật như tấm áo khổng lồ, nuôi cá cá chết, cỏ cây không tài nào sống được. Những người đàn bà ngày nào cũng nơm nớp từ lúc bới cơm vào cặp lồng cho chồng con lên bãi đá đến khi họ trở về ngã vật xuống giường dỗ dành sức lực trong khi ở bãi đá vẫn rung giật vọng vào tiếng núi kêu than. Nhiều người thành góa phụ  khi mới vừa kịp tân hôn.

Nhài mất chồng, nhưng không phải trên mỏ đá. Hôm ấy, Nhài vẫn bới cơm cho chồng, không quên bỏ vào túi cước cút rượu trắng. Buổi trưa cánh thợ đá cơm nước đâu đấy xong, rượu đã lâng lâng, đám đàn ông ngồi vãn chuyện, chuyện gần xa rồi chuyện nhà chuyện vợ, chuyện Nhài không đẻ được con trai. Mới đầu thì nói cho vui, sau chuyển sang cay cú, rằng làm tối mặt tối mày chỉ nuôi vợ mình và vợ ba thằng khác, tốt nhất ở nhà cho sướng thân. Rằng bắt đầu từ hôm nay chồng Nhài hãy ngồi một mình một mâm, sau này làm ông ngoại cho nó quen dần. Rằng nhà hai tầng, thợ bộc phá giỏi nhất nhì mỏ đá mà lấy con vợ người dài nhẳng như củi cháy. Rượu và sự phẫn uất ngún vào nhau bắt lửa đốt rụi cả trí khôn. Chồng Nhài giắt thuốc nổ vào lưng, lừng lững về nhà khi Nhài đang lúi húi nấu cơm trong bếp, hắn dí vào mặt Nhài ống thuốc, gầm giọng hỏi:

- Mày có đẻ nữa không?

Nhài hiểu ngay mọi sự thế nào, cô răm rắp gật đầu, răm rắp dạ vâng. Cơn giận của chồng nguôi ngoai, Nhài ra ngoài sân quét tước. Một tiếng nổ long trời lở đất. Lặng đi vài giây rồi đất đá rơi xuống ào ào. Nhài bị hơi bom xô xuống sát mé ao, nằm viện gần một tháng trời về nhà thì xóm làng họ hàng đã lo hậu sự cho chồng xong xuôi đâu đấy. Ba đứa con gái ôm mẹ rưng rức khóc, làng đá mà không có đàn ông trong nhà thì lấy gì làm kế sinh nhai.

Bốn mẹ con nương tựa vào nhau, vỡ ruộng đất ngày xưa từng màu mỡ, ươm lên những thửa ruộng thân quen mầm khoai nhánh mạ. Mấy sào ruộng của mẹ con lẻ loi giữa đồng không, khoai chưa kịp thu chuột khắp nơi kéo đến cắn sạch gốc, lúa vừa lên được gang tay là èo uột nghẹn đòng. Nước mắt đổ xuống đồng cũng không tưới tắm được lúa ngô xanh tốt. Nhài xõa tóc đi lên núi, chỉ mặt hỏi tên những thằng khích bác khốn nạn đâu rồi. Không một ai trả lời, chỉ có bụng núi đang quặn lên cơn đau do bộc phá. Người ta bảo Nhài phát điên.

Giá mà điên được, ba đứa con gái đang tuổi ăn tuổi học, Nhài búi tóc, gạt nước mắt theo những người đàn bà một vai hai gánh trong làng.

Đàn ông sức vóc thì lái xe tải, máy xúc, đàn bà yếu hơn thì gánh gồng, đẩy xe rùa bưng bê đá mạt, Nhài cũng vươn vai, nhô cổ choãi chân. Những người đàn bà cụm vào nhau, nhìn bất hạnh của nhau mà tìm lẽ sống. Người sống được thì ta sống được kể cả giữa tiếng ồn ào váng óc, bụi bịt lấy lỗ mũi, nắng đốt cháy da và  thiêu lóa mắt. Sống giữa khung cảnh ấy dường như mọi thứ đều bị kéo căng hết cỡ, dễ dàng nổ tung. Với đám đàn ông, nhiều khi chỉ một câu nói, một ánh nhìn không vừa mắt là sẵn sàng nổ ra một cuộc ẩu đả, một tai họa. Lạ lùng là với cánh đàn bà, càng vất vả, càng khốn khổ, người ta càng co cụm bao bọc lấy nhau.

Trên đời, ở bất cứ đâu, đàn bà vẫn là giống lo toan sớm. Trên nền cũ của chái bếp tan hoang gạch vụn, ba đứa con gái cùng mẹ hè nhau quây gạch, mua lợn giống về nuôi. Sáng chiều đi học về chúng thay nhau đạp xe xuống mấy làng dưới ở ven đê cạnh dòng sông Vận mua cám gạo, mùa đông chúng mang theo bao tải tranh thủ giữa trưa chiều muộn đi kiếm rau dền rau rệu rau tàu bay. Mùa xuân mùa hè, chúng xăn quần xuống con mương ven đê bắt ốc bươu vàng hái rau muống mọc dài về quấy cám.

Chúng bắt đầu ao ước nhà mình nằm bình yên trong những xóm nhỏ ven sông. Cuối xuân đầu thu được đi cắt lúa trên đồng, mùa đông té nước trồng hành tỏi, hoa cải vàng bên sông chấp chới, giấc ngủ bình yên không nghe tiếng núi rên rỉ trở mình.

Những ao ước ấy cứ lớn dần lên trong giấc ngủ chập chờn. Trong bữa cơm ba chị em tranh nhau kể lể, chúng vẽ lên cuộc sống thanh nhàn như ngày Nhài còn bé. Nhài cũng ước ao.

Khi tấm lưng dỗ giấc cả đêm tỉnh dậy không bớt đau, đôi chân leo lên núi bắt đầu rệu rã, Nhài không thể nào gồng mình được nữa. Chị rao bán nhà cửa vườn tược. Mảnh đất sát núi vàng núi bạc, người ta xúm lại mua ngay. Mẹ con dắt díu rời làng. Nhà không có đàn ông, hàng xóm mỗi người một tay một chân sửa nhà, khuân vác đồ đạc.

Những đêm yên lành giữa làng xóm mới, mấy mẹ con thi thoảng vẫn giật mình. Đứa con gái nhớn học hết mười hai nhất quyết không đi học nữa, em nói với mẹ trổ một gian nhỏ gần lối đi cạnh cổng mở tiệm may. Trong bữa cơm quây quần, chị cả nói với các em phải cố mà thoát ly ra thành phố, phải cho người ta thấy chẳng có quyền lực nào mang tên con trai cả. Nhài bật cười trước sự hiếu thắng của đứa con gái vừa kịp phổng phao rồi lại thấy rưng rưng. Nhài bảo:

- Con ơi! Mình sống đời mình.

Làng ven sông, đất trong vườn bóng màu nâu đỏ, mấy mẹ con cùng nhau đắp đổi, gà gáy trăng non vẫn còn cặm cụi. Những bụi chuối trong vườn cứ láng mướt xanh um, lúa trên đồng chắc hạt nặng mông, rơm nếp phơi tăm tắp trên tường gạch, mẹ ngồi bện chổi góc sân, con gái chỉn chu may vá, tiệm may lúc nào cũng xôn xao tiếng nói cười lấy số đo, chọn màu vải vóc…

***

Bẵng đi mấy năm, một ngày khắp xã khắp huyện xôn xao: Làng Bồ Bản quê cũ của mấy mẹ con nay lạ lắm, người ta kê chõng mắc bạt giữa con đường độc nhất vào làng, người già trẻ con thanh niên trai tráng cắt cử nhau giữ đường ngày cũng như đêm, đội hậu cần hùng hậu lo cơm nước cho dân làng giữ sức. Cánh tài xế ở nơi khác đến chở đá sợ bị túm cổ ấn xuống mương. Đám chủ thầu chưa kịp vỗ về bằng những lời hứa hẹn đường mật đã bị ông già bà cả hất bụi đá phải bỏ đi... Trong làng, vợ bảo chồng, con nhắc cha đừng lên núi nữa. Họ giờ mới ngấm cái cảnh trẻ con mới sinh ra nhiều đứa bị kinh giật, phổi nám bụi xi măng, đám đàn ông sau bao nhiêu năm bươn bải kiếm tiền giờ hục hặc ho ra máu. Cửa rộng nhà cao có ý nghĩa gì với người đàn ông thoi thóp đấm ngực trên giường chiếu. Mâm cơm nóng hổi vừa bưng lên phải giục mọi người ăn quáng ăn quàng kẻo bụi thì tiền bạc ý nghĩa gì với người đàn bà. Đám con cháu thành đạt trên thành phố về, chúng mang đơn lên huyện rồi lên tỉnh.

Rồi người ta cũng hiểu nỗi lòng người dân. Bình yên được trả lại cho làng khi những ngọn núi đã bị cắt hết ngọn, chỉ còn là những dải đá thấp buồn bã nằm dưỡng thương. Không còn lộc đá, dân làng kéo xe xuống mấy làng dưới xã mua trấu, mua tro, xin rơm rạ mục về độn ruộng, vôi bột rắc trắng cánh đồng khử khuẩn, máy nước đêm ngày hút nước lên đồng. Cũng mất đến mấy vụ nghỉ đồng cho đất ngấu, người ta lại bắt đầu ngâm giống, lọc bùn xạ mạ. Màu xanh trở lại trên đồng.

Núi vẫn hiền lành cho nhà nào nhà nấy tựa lưng. Vạt núi thấp chậm chạp hồi sinh bằng màu xanh cần mẫn của cây giàng giàng. Bên hông nhà mỗi cuối đông chè bụi tí tách bung hoa trắng. Trẻ con lớn lên từ đồng ruộng rồi đi khắp muôn nơi bằng sự cặm cụi của cha ông. Giữa hè, đầu xuân bọn chúng về làng, đi qua con đường hai bên mênh mông lúa ngô vẫn khe khẽ hát, chúng bảo nơi không đâu an lành bằng bầu ngực quê hương. 

Tựa lưng vào núi ảnh 1Truyện ngắn dưới đây như một bi kịch có một cái kết có hậu - dù có phần muộn màng. Viết về cuộc sống đàn bà nói chung và bi kịch của họ nói riêng, Hoàng Hiền có thế mạnh ở sự tinh tế, chi tiết. Nhưng điều khiến trái tim lay động hơn cả chính là thái độ thấu hiểu và ngôn từ của tác giả - nhất là những đoạn về làng quê, về đất đai và những ngọn núi.

Hoàng Hiền còn làm phim. Chị sống và làm việc ở TP HCM.            

L.A.H

MỚI - NÓNG