Hiệp định Paris nhìn từ phía bên kia

Hiệp định Paris nhìn từ phía bên kia
TP - Một ngày sau khi thắng cử vẻ vang (với gần 61% số phiếu, chưa có một ứng cử viên Đảng Cộng Hòa nào thắng lớn như vậy trong lịch sử Hoa Kỳ) Nixon lại viết cho Thiệu một lá thư dài để mở lại cuộc đối thoại về bản dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh.

>> Kỳ trước

Hiệp định Paris nhìn từ phía bên kia ảnh 1

Đồng chí Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ VNDCCH ký Thông báo chung với Hoa Kỳ về thực thi Hiệp định Paris ngày 13/6/1973 - Ảnh: Phòng lưu trữ Bộ Ngoại giao

Tướng Haig được ủy nhiệm mang lá thư sang Sài Gòn và giải thích cho ông Thiệu rõ ý định của Nixon. Kissinger đã hằn học về lời tố cáo của Thiệu, gọi bản Hiệp định là một sự “đầu hàng”. Về phần Thiệu, ông cũng đã không chịu đựng được Kissinger thêm nữa, vì tin rằng vị cố vấn An ninh Quốc gia này đã chỉ hành động theo nghị trình riêng của mình với sự đồng lõa của Bắc Việt.

Thiệu muốn nói chuyện thẳng với Nixon. Ông cho phát động trong giới báo chí Sài Gòn một chiến dịch gán cho Kissinger cái lỗi là đã không thông báo chính xác quan điểm của VNCH cho Nixon. Sau lần thất bại vừa rồi, Kissinger không còn mặt mũi nào trở lại Sài Gòn lần nữa, nên Nixon đã chọn Haig đi thay thế, để vừa xoa dịu, vừa khuyến khích Thiệu.Nixon trọng cái đức tính cứng cỏi của người quân nhân này, và cũng khéo léo dùng ông ta để “chơi” lại Kissinger. Nixon có thể tin Haig sẽ phục tùng mệnh lệnh của ông và không có một mưu cầu riêng tư nào khác là lên lon.

Haig tới Sài Gòn ngày 10 tháng 11 năm 1972, và đi ngay tới Dinh Độc Lập để trình lá thư Nixon, cũng lại do chính Kissinger thảo. Haig là một sứ giả lý tưởng. Vẻ gồ ghề, dáng điệu góc cạnh nhà binh của ông ta làm Thiệu thấy thoải mái. Haig đã từng phục vụ tại Việt Nam hồi năm 1966 – 67, trong chức vụ tiểu đoàn trưởng, và được cả lục quân HK lẫn chính phủ VNCH tưởng thưởng huy chương về sự dũng cảm trong khi tác chiến.

Với kinh nghiệm đầu tay, Haig hiểu biết tình hình quân sự tại Việt Nam, và qua các cuộc nói chuyện, Thiệu đã thấy Haig có thiện cảm với “chính nghĩa” của VNCH hơn là Kissinger. Tuy nhiên, ông chỉ là một người đưa tin, không có quyền hành gì cả, dù rằng có ảnh hưởng với Nixon.

Haig nói với Thiệu rằng Tổng thống Nixon đã quyết tâm đi tới chỗ ký kết nhưng cũng rất mong thỏa mãn những yêu sách của Sài Gòn. Trong phần phụ giải theo chỉ thị của Nixon, Haig không khéo nhấn mạnh ở điểm Thiệu phải có sáng kiến chính trị và tâm lý để tiến tới việc tái thiết miền Nam và củng cố quyền lực của mình.

Phần thưởng cho sự cộng tác với Hoa Kỳ sẽ là một cuộc họp mặt với Nixon. Dù Nixon vừa thắng cử lớn, nhưng về vấn đề Việt Nam thì Hạ viện HK không còn kiên nhẫn, và Thượng viện thì lại “bồ câu” hơn cả trước ngày bầu cử. Nếu không có được một dàn xếp nào trước khi quốc hội tái nhóm vào tháng Giêng năm 1973, và nếu Thiệu bị coi như một chướng ngại cho hòa bình, thị Thượng viện sẽ cắt ngân quỹ viện trợ cho VNCH.

Trước khi Haig tới Dinh Độc Lập với đại sứ Bunker, Thiệu đã bảo Nhã duyệt lại một “kế hoạch ý đồ”, đoán xem Haig sẽ có những đề nghị gì mới để liệu cách đối phó. Tới một cao điểm của phiên họp, Thiệu cho biết không thể chấp nhận Hiệp định Paris nếu không sửa đổi thêm. Haig đã toan nổi nóng, mắt nheo lại và hít thêm không khí đầy ngực.

Nhưng rồi lấy lại bình tĩnh, ông ôn tồn nói với Thiệu là nếu không đồng ý với Hiệp định, Hoa Kỳ sẽ bắt buộc phải “có hành động tàn bạo”. Dù không quen với những lời đe dọa lỗ mãng ấy, Bunker vẫn thản nhiên như không, chỉ nhích cặp lông mày lên một chút. Dù Thiệu đã đoán trước sẽ có một đe dọa nào đó, ông chỉ biết cười xòa, mà không yêu cầu Haig giải thích thêm lời đe dọa ấy. Haig coi bộ bứt rứt khi Thiệu không trả lời mà cũng không hỏi han thêm.

Lần này, lá thư của Nixon, đề ngày 18 tháng 11, 1972 có lời lẽ cứng rắn hơn, gay gắt hơn những lá thư viết trước kỳ bầu cử. Nhưng nếu Nixon đe dọa, thì ông ta cũng lại hứa hẹn thêm. Một vài đoạn điển hình:

Kính thưa Tổng thống,

Trước hết, tôi phải phát biểu nỗi thất vọng của tôi về điều mà tôi coi là một chiều hướng nguy hiểm trong mối liên hệ giữa hai quốc gia chúng ta, một xu hướng chỉ mang tới hậu quả là phá hoại những mục tiêu chung của chúng ta, và làm lợi cho kẻ địch.

Những sự bóp méo, đả kích liên tiếp bản Hiệp định đã không công bằng mà còn có tính cách chủ bại. Những sự xuyên tạc và đả kích đó vẫn còn dai dẳng bất chấp nhiều phản kháng của chúng tôi, kể cả lá thư ngày 29 tháng 10 của tôi gửi Ngài. Chúng đã làm cho chúng tôi bối rối và gây cho tôi nhiều trở ngại.

Trong những lần liên lạc trước, và trong những cuộc trình bày của TS Kissinger, và Đại sứ Bunker, chúng tôi đã giải thích nhiều lần tại sao chúng tôi coi bản dự thảo Hiệp định ấy là hợp lý; chúng tôi tiếp tục tin tưởng rằng nó phản ánh những nhượng bộ của phe bên kia, nó bảo vệ nền độc lập của Việt Nam, và cho phép nhân dân Việt Nam quyết định lấy tương lai chính trị cho chính mình.

Ngài cũng đã được thông báo đầy đủ về công cuộc tái thiết các khí cụ hiện đang được thực hiện để tăng cường các lực lượng của Ngài trước khi có đình chiến. Tôi đã rất nhiều lần gửi đến Ngài những bảo đảm chắc chắn chống lại trường hợp Hiệp định có thể bị vi phạm.

Tôi đã ngỏ ý muốn gặp Ngài một thời gian ngắn sau khi hiệp định được ký kết để biểu dương lại sự ủng hộ tiếp tục của chúng tôi. Tôi khỏi cần kể lại rất nhiều lập luận, giải thích, và những công tác đã được thực hiện. Chúng vẫn còn có hiệu lực.

Tôi thiển nghĩ là Ngài có hai lựa chọn chủ yếu. Ngài có thể dùng sự ủng hộ của dân chúng mà Ngài đã thâu lược được do những hành động mới đây để tuyên bố đã có thắng lợi quân sự mà bản Hiệp định phản ảnh; Ngài có thể cộng tác với đồng minh mạnh nhất của Ngài để mang lại thắng lợi chính trị do những điều kiện hiện hữu mang tới.

Ngài có thể nắm lấy sáng kiến chính trị và tâm lý bằng các hoan nghênh bản hiệp định và thi hành những điều khoản của nó theo một đường lối tích cực. Trong trường hợp này, tôi xin nhắc lại lời mời của tôi để gặp Ngài, một thời gian ngắn sau khi ký hiệp định, để nhấn mạnh sự hợp tác mật thiết liên tục giữa chúng ta.

Lựa chọn thứ hai là Ngài vẫn tiếp tục con đường mà dường như Ngài đang theo đuổi hiện nay. Theo ý tôi, thì điều đó sẽ có lợi cho kẻ địch và sẽ mang đến những hậu quả vô cùng trầm trọng cho cả hai dân tộc ta. Nó sẽ là một thảm họa cho dân tộc Ngài.

Thưa Tổng thống, tôi xin Ngài cho Đại tướng Haig biết ta có thể yên tâm tiến hành trên căn bản này không? Chúng tôi hiện đã tới một giai đoạn mà tôi cần biết đích xác liệu Ngài có sẽ tiếp tay với chúng tôi trong nỗ lực mà tướng Haig sẽ phác họa với Ngài không, hay là chúng tôi phải trù liệu các đường lối hành động khác mà tôi tin rằng sẽ thiệt hại cho quyền lợi của cả hai quốc gia chúng ta.

Tôi hy vọng Ngài và chính phủ Ngài sẵn sàng cộng tác với chúng tôi. Có rất nhiều công tác chuẩn bị cần được thực hiện và chúng tôi tin rằng các toán đặc nhiệm HK – VNCH phải khởi sự làm việc với nhau để chúng ta sẽ ở vào tư thế tốt nhất có thể có, ngõ hầu thi hành bản Hiệp định.

Tôi hoàn toàn tin rằng nhân dân Ngài, quân lực Ngài và chính bản thân Ngài đã giành được một thắng lợi lớn mà bản dự thảo Hiệp định sẽ xác nhận.

Ý định của tôi là sẽ xây dựng trên những thành quả đó. Tôi muốn được cộng tác với Ngài và chính phủ Ngài trong nhiệm kỳ thứ hai của tôi để bảo vệ tự do tại miền Nam– trong thời bình, cũng như ta đã cộng tác trong nhiệm kỳ thứ nhất của tôi để bảo vệ nó trong thời chiến.

Trong bốn năm qua, Ngài và tôi đã là hai đồng minh thân thiết, trên bình diện cá nhân cũng như quân sự. Sự liên minh này sẽ đưa chúng ta tới một vị trí khiến kẻ địch đang thỏa thuận với những điều kiện mà bất cứ một quan sát viên vô tư nào cũng đã nói là không thể có được bốn năm trước đây. Sự liên minh của chúng ta và những thành quả của nó đã được xây dựng trên sự tin cậy lẫn nhau. Nếu Ngài tiếp tục tin cậy chúng tôi, thì cùng nhau chúng ta sẽ thành công.

Kính thư
(k.t) Richard Nixon

Sau khi Haig rời Dinh Độc Lập, Thiệu đọc lại lá thư một lần nữa rồi viết lên đầu thư: “Đọc cho Hội đồng và Task force (Toán đặc nhiệm) làm việc trên những điểm này”. Ông còn đánh ba dấu hỏi lớn ở lề lá thư, chỗ viết “Những sự bóp méo và đả kích liên tiếp bản hiệp định đã không công bình mà còn có tính cách chủ bại”.

Thiệu mất tinh thần về sự thay đổi giọng điệu của Nixon, nhất là câu mở đầu, “một chiều hướng nguy hiểm trong mối liên hệ...”.

Haig trở về Hoa Thịnh Đốn, mang theo thư của Thiệu và tin tưởng rằng rốt cuộc Thiệu sẽ đi theo. Ngày 12 tháng 11, ông phúc trình cho Nixon:

“Hiện giờ chúng ta đang phải đối phó với một tình thế nguy ngập. Thiệu nhất định đặt uy tín của ông ta lên cùng một chỗ với uy tín của toàn thể chính phủ ông ta... cho nên tôi nghĩ rằng, nếu ta cứ giữ một lập trường hoàn toàn không hợp lý với ông ta, thì có thể sẽ bắt buộc ông ta phải lâm vào chỗ tự sát chính trị. Trong trường hợp đó, tôi không chắc là quyền lợi của ta sẽ được phục vụ tối đa; cho nên tôi đề nghị một giải pháp nghe dễ sợ hơn, là cố gắng giải quyết vấn đề đó với Thiệu cho đến phút chót”.

Nixon đồng ý với phân tích của Haig “rằng cái giá phải trả để giữ Thiệu lại tất nhiên là nhiều rủi ro, nhưng tôi không tin là không thể chấp nhận được trong thời điểm này”. Ngày 8 tháng 12 đã được định là thời hạn chót để ký Hiệp định tại Paris. Nếu như vẫn không thể thuyết phục được Thiệu chịu ký vào lúc đó thì Nixon quyết định sẽ ký với BV một bản hiệp định riêng biệt. Nixon bây giờ lấy một giọng điệu ôn hòa hơn.

Ngày 14 tháng 11, ông gửi cho Thiệu một phúc thư, và điện báo sang Sài Gòn cho Bunker bảo trao lá thư vào tối ngày 14 tháng 11. Lá thư có nội dung kêu gọi VNCH cộng tác bằng cách viết rõ ra về “bảo đảm tuyệt đối” của HK trước khi điều đình tái tục tại Paris giữa Kissinger và Thọ vào ngày 20 tháng 11. Các đoạn chính lá thư như sau:

Kính thưa Tổng thống,

...Qua lá thư của Ngài và qua bản phúc trình riêng của Đại tướng Haig, tôi hiểu rằng mối quan tâm chính còn lại của Ngài đối với bản dự thảo hòa bình là tình trạng của lực lượng BV hiện nay ở Nam Việt Nam. Như Tướng Haig đã giải thích với Ngài, chúng tôi có ý định đối phó với vấn đề này bằng cách, thứ nhất, thêm vào bản dự thảo hiệp định một điều khoản đòi giảm quân và giải ngũ các lực lượng hai bên tại Nam Việt Nam... và đòi số quân nhân giải ngũ trở về quê quán họ.

Tôi sẽ không nhắc lại hết ở đây những gì tôi đã viết trong lá thư gửi Ngài ngày 8 tháng 11, nhưng tôi xin được tái khẳng định nội dung chủ yếu của nó và nhấn mạnh một lần nữa quyết tâm của tôi muốn đi tới một hiệp định sớm sủa, đại để như lịch trình mà tướng Haig đã giải thích với Ngài.

Tôi phải rất thành thực giải thích là mặc dù chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để đạt được những thay đổi trong bản Hiệp định mà tướng Haig đã thảo luận với Ngài, và những thay đổi phụ mà Đại sứ Bunker sẽ trao đến Ngài. Chúng tôi không thể trông đợi là có thể đạt được tất cả. Thí dụ, nếu giả định rằng chúng tôi sẽ có thể đạt được những đảm bảo tuyệt đối mà Ngài hy vọng có được về vấn đề quân đội BV thì không thực tế.

Nhưng quan trọng hơn rất nhiều những gì chúng tôi nói trong Hiệp định về vấn đề này là những gì chúng tôi sẽ làm trong trường hợp kẻ địch tái diễn xâm lược. Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng: nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp định này, thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và ác liệt.

Tôi tin rằng bản Hiệp định hiện có là một hiệp định, trong chủ yếu, hợp lý, và nó còn phải trở nên hợp lý hơn nữa nếu chúng ta thành công trong việc lấy được một số những thay đổi mà chúng ta đã thảo luận. Sự bảo đảm lớn nhất cho thành công là tiến tới hoàn cảnh mới này với lòng tin tưởng và cộng tác...

Trên hết chúng ta nên ghi vào tâm khảm những gì thực sự duy trì được bản Hiệp định: Chẳng phải là một điều khoản đặc biệt nào đó trong bản Hiệp định mà là sự quyết tâm của cả hai chúng ta để duy trì các điều khoản của nó. Tôi xin nhắc lại những bảo đảm của chính tôi với Ngài là Hoa Kỳ sẽ phản ứng thật mạnh mẽ và mau lẹ đối với bất cứ vi phạm Hiệp định nào. Nhưng để thực thi điều này một cách hữu hiệu, điều quan trọng là tôi phải có được hậu thuẫn của dân chúng, và chính phủ Ngài phải đừng tỏ ra như một trở ngại cho một nền hòa bình mà công luận Hoa Kỳ giờ đây hoàn toàn mong muốn. Chính vì lý do này, mà tôi tin là đi đôi với danh dự và công lý, một Hiệp định mà ta có thể làm cho trở nên an toàn bằng sự quyết tâm chung của chúng ta.

Nhà tôi và tôi xin gửi đến Phu nhân và Ngài những lời kính thăm nồng hậu nhất. Cả hai chúng tôi đều mong được gặp Ngài và quý Phu nhân lần nữa tại nhà riêng của chúng tôi ở California một khi nền hòa bình công chính mà chúng ta đã tranh đấu từ bấy lâu nay rốt cuộc đã hoàn thành. 

Kính thư,
(kt) Richard Nixon

-----------------

(Còn nữa)

MỚI - NÓNG