Bàn về đào tạo 'đẳng cấp quốc tế' ở nước ta

Bàn về đào tạo 'đẳng cấp quốc tế' ở nước ta
Cụm từ "đẳng cấp quốc tế" thường được sử dụng như mốt thời thượng. Thử hỏi đại học có "đẳng cấp quốc tế" là gì? Liệu TP.HCM có thể trở thành đầu tàu trong việc nâng cao trình độ đại học của cả nước?

Sở dĩ các trường đại học trên thế giới được ca ngợi, xem là có trình độ cao là vì những lý do sau đây:

1. Lực lượng giảng dạy và nghiên cứu là những người có uy tín trong học thuật, bản thân những người này có các công trình khoa học hàng đầu (topics), đang được giới học thuật trong ngành chú ý hay trích dẫn, tham khảo để nối tiếp.

Bên cạnh những nhà nghiên cứu này là một bộ máy sinh viên - thầy giáo cùng hợp tác (working team). Họ có những phòng nghiên cứu riêng trong đại học, cùng đứng tên chung đề tài trong khi hướng dẫn sinh viên làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ hoặc tiến sĩ.

Trường có nhiều vị giáo sư đạt giải thưởng về học thuật trong và ngoài nước, tạo ra được mũi nhọn cho đại học mình, như trường hợp MIT, Harvard (Mỹ), Oxford (Anh) hay Kyoto (Nhật)...

2. Sinh viên ra trường đều được đánh giá cao với luận văn tốt nghiệp có giá trị khoa học thật sự và hầu hết tìm được việc làm ở những viện nghiên cứu chuyên ngành, đại học, nhà máy, cơ quan khoa học... có thể tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu chuyên môn hay thi thố tài năng của mình.

3. Đại học có đủ bộ máy quản lý nhân sự, khoa học lẫn tài chính nhằm tổ chức giảng dạy và nghiên cứu học thuật hoàn chỉnh, là nơi đào tạo nhân tài cho xã hội đáng tin cậy.

Quả không ngoa khi những sinh viên tốt nghiệp đại học Harvard, MIT đều được trọng vọng. Tại Pháp, những "cửa lớn" (grande porte - các công ty hàng đầu) luôn giành giật sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp, ngay khi chưa bước chân ra khỏi Ecole Polytechnique (đại học bách khoa) hay Teidai (đại học đế quốc) ở Nhật hoặc Princeton, Harvard (Mỹ). Họ có một tương lai vô cùng hứa hẹn, trở thành nhà khoa học đầu ngành, cán bộ quản lý cao cấp hay lãnh đạo bộ máy nhà nước...

Như vậy, ngoài đầu ra đắt giá của "sản phẩm" đào tạo, một trong những tiêu chí đánh giá một đại học có tầm cỡ hay không là nhìn vào CV (Curriculum Vitae - lý lịch) về học thuật của thành phần giảng dạy và những công trình nghiên cứu của đại học đó, chứ không phải sự đánh giá chủ quan, mang tính "tự xưng", xem mình là đẳng cấp quốc tế (mà không ai có thể thẩm định theo một tiêu chí nào cả).   

Hơn thế nữa, chất lượng giáo dục ở đại học không chỉ dừng lại ở nội dung học tập của sinh viên, mà còn tuỳ thuộc vào khả năng đóng góp vào nhu cầu của xã hội như thế nào của thầy và trò ở đại học, trong đó nghiên cứu khoa học là một chức năng không thể thiếu.

Không thể có một đại học “đẳng cấp” quốc tế mà các vị giáo sư chẳng có công trình khoa học, chỉ đứng giảng theo lối từ chương, lật sách đọc bài sáo mòn từ năm này sang năm khác.

Thực tế này càng lộ rõ khi số đại học mới được thành lập tăng nhanh, trong năm 2006 - 2007 đã có 25 trường đại học, trong số đó số thầy "đủ" trình độ vô cùng khan hiếm.

Thu hút trí thức kiều bào

TP.HCM với vị trí thuận lợi trong giao lưu và quan hệ quốc tế, nơi có những cơ sở vật chất tương đối thuận lợi, nhân lực cho đại học và cao đẳng được đào tạo từ nhiều nguồn trong cũng như ngoài nước, vì vậy xây dựng một đại học có tầm khu vực không phải là việc làm không tưởng.

Đã có nhiều kiều bào trí thức về nước tham gia giảng dạy ngắn cũng như dài hạn, trong đó có một số anh chị em tự nguyện hồi hương từ nhiều năm qua và hiện có mặt trong bộ máy giảng dạy của đại học bách khoa, tổng hợp, sư phạm...

Gần đây, một số giáo sư là kiều bào đang giảng dạy tại các đại học nổi tiếng ở các nước Mỹ, Pháp, Nhật... cũng đã đề xuất đề án xây dựng một đại học "hiện đại". Tuy nhiên, những nỗ lực đó còn dừng lại ở mức tham khảo, chứ chưa được quan tâm đánh giá để tích cực đưa vào việc cải tổ đại học ở nước ta. 

Bên cạnh đó, việc huy động nguồn chất xám vẫn còn ở mức cá nhân, chưa thành một chính sách tích cực để đưa kiều bào trí thức trở về tham gia từng phần, góp phần nâng cao trình độ trong nước như mong muốn...

Ở một số đại học dân lập ở TP.HCM, các trường trung học phổ thông cũng đã bắt đầu đưa chuyên gia nước ngoài tham gia giảng dạy, nhưng chủ yếu là ngoại ngữ, chưa có việc kết hợp đào tạo ở các ngành khoa học tự nhiên và công nghiệp.

Dù vậy, sự liên thông giữa đại học trong nước và nước ngoài là một bước tích cực để nâng cao trình độ của sinh viên, nhưng cũng còn ở bước thử nghiệm vì chi phí học tập ở nước ngoài vào các năm cuối của học trình còn quá cao so với mức thu nhập của người dân.

Chính phủ Pháp cũng đã có chương trình hỗ trợ, liên kết, liên thông giữa đại học trong nước với những đại học của Pháp, tổ chức giảng dạy tại Việt Nam và tu nghiệp tại Pháp (cũng như Australia hay một vài đại học ở Hoa Kỳ).

Bước đi này đều ở mức xuất phát, tập trung ở một số ngành đặc thù như du lịch, khách sạn, công nghệ thông tin... hy vọng sẽ phát huy tác dụng trong những năm tới.

Phải chăng Chính phủ nên ban hành một chính sách thực thi cụ thể hơn nữa triển khai nội dung Nghị quyết 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã ban hành cách đây hơn ba năm.

Bộ Giáo dục và đào tạo nên "khoán" cho đại học việc tiếp thu giáo sư thỉnh giảng nước ngoài (kiều bào trí thức), thực hiện việc hợp tác giảng dạy theo một cơ chế mở, chi trả theo mức lương độc lập trên cơ sở tự cân đối hay huy động tài trợ của nước ngoài hay xí nghiệp trong nước.

Với cách làm này, từng bước TP.HCM, Hà Nội sớm có những chuyên ngành (bộ môn) và khả năng nghiên cứu mang tầm quốc tế, từ đó có thể nhân rộng và phổ cập cho các ngành khác trong đại học và toàn diện cho cả nước.

Tiềm lực của hai thành phố này rất lớn trong phát triển kinh tế, công nghiệp và dịch vụ, đó cũng là tiền đề cho những quyết sách "thông thoáng", tích cực tài trợ và huy động tài chính của xí nghiệp (được khấu trừ thuế) cho nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân tài ngay tại trong nước, tiết giảm chi phí cử cán bộ ra nước ngoài tu nghiệp, hay để lấy học vị thạc sĩ, tiến sĩ như chủ trương hiện nay.

GS Hồng Lê Thọ (Tokyo)
Theo Sài Gòn Tiếp Thị

MỚI - NÓNG