Thế giới trải qua 7 đại dịch tả

Thế giới trải qua 7 đại dịch tả
Đã có cả chục triệu người chết do các trận dịch tả lớn xuất hiện trong vòng 200 năm qua. Riêng trận dịch tấn công nước Anh vào năm 1848 - 1849 đã làm 70.000 người tử vong.
Thế giới trải qua 7 đại dịch tả ảnh 1

Bệnh nhân tả trong trận dịch năm 1892 ở Đức. Ảnh: Sức Khoẻ & Đời Sống.

Trong 7 lần “thư hùng” với đại dịch tả tính từ khi dịch được ghi nhận lần đầu tiên năm 1817 (trong đó 6 cuộc diễn ra vào thế kỷ 19), phần thắng luôn thuộc về con người. Nhưng cái giá phải trả cho chiến thắng là vô số sinh mạng.

Người ta cho rằng, bệnh tả xuất hiện tại châu Á từ 600 năm trước Công nguyên. Bệnh được ghi nhận lần đầu tiên trong y văn vào năm 1563 tại Ấn Độ. Trận dịch lớn đầu tiên đã nổ ra ở nước này vào năm 1817-1821. Dịch lan rộng theo các tuyến vận tải mậu dịch vào nước Nga, tiếp theo là châu Âu và Bắc Mỹ. Nó trở thành căn bệnh mang tính toàn cầu đầu tiên của nhân loại, hoành hành khắp nơi chỉ trừ... Nam cực.

Thời kỳ đó, các bác sĩ không hề biết đến cơ chế của bệnh tả. Họ chỉ biết rằng, những triệu chứng ban đầu là nôn mửa, xuất huyết, cảm giác lạnh vì mạch đập rất yếu, và tử vong rất nhanh.

Bệnh này được đặt tên là tả châu Á, hay tả co thắt. Các bác sĩ thường điều trị bằng cồn thuốc phiện, rượu mạnh, trích máu nhưng đa phần là thất bại, vì thế số người tử vong rất cao.

Đại dịch năm 1854 đã cướp đi sinh mạng của 1/8 dân số thành phố London (Anh) chỉ trong một thời gian ngắn. Thời kỳ đó, London có 2,5 triệu người, nhưng chỉ có 200.000 buồng vệ sinh. Người dân có thói quen đổ nước thải từ trên tầng xuống và ném rác ra đường. Những chất thải này trôi theo dòng nước và cuối cùng đổ vào sông Thames (thời đó, sông ngòi là hệ thống chứa rác thải), vì thế sông này bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Ở Pháp, năm 1832, gần 40.000 người dân Paris mắc dịch tả và phân nửa trong số đó đã bỏ mạng; trong số nạn nhân có cả tể tướng. Năm 1848-1849, một số lượng người tương tự cũng đã chết vì dịch bệnh.

Đại dịch tả gần đây nhất được ghi nhận vào năm 1991 tại Peru. Tuy nước này đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp nhưng dịch vẫn lan rất nhanh sang các nước Trung - Nam Mỹ làm cho gần nửa triệu người nhiễm bệnh, trong đó có hơn 10.000 người tử vong.

Đầu tiên, người ta cho rằng bệnh tả lây qua đường hô hấp, vì thế khi đại dịch xảy ra đã có những cuộc di dân lớn. Nhưng điều đó càng làm bệnh lan rộng một cách nhanh chóng.

Năm 1849, một bác sĩ tên là John Snow đã đưa ra nhận định đột phá: Dịch tả lây truyền nhanh theo những nguồn nước. Khi đó, không ai để ý đến giả thuyết của ông. Ông chịu sự công kích của các công ty khai thác và cung cấp nước vì làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ.

Trong trận đại dịch năm 1854, Snow âm thầm điều tra, làm thống kê xác định vị trí các trường hợp tử vong. Ví dụ ở khu vực đường Cambridge và Broad, nơi sử dụng chung một nguồn nước, con số tử vong lên tới 500 người chỉ trong hơn một tuần lễ.

Ông yêu cầu dỡ bỏ tay bơm nước tại nguồn, số người chết giảm xuống rất nhanh. Tại thời điểm đó, có hai công ty lấy nước sông Thames cung cấp cho thành phố, một ở thượng nguồn, một ở hạ nguồn. Snow phát hiện rằng, dịch tả hoành hành mạnh ở những khách hàng uống nước lấy từ hạ nguồn - nơi ô nhiễm nặng do rác thải của thành phố.

Qua đề nghị của John Snow, vào năm 1852, Đạo luật Nước ra đời, yêu cầu tất cả các công ty cấp nước phải lọc trước khi bán. Hệ thống cống thải của thành phố London được thiết kế khai thông ra biển. Nhờ vậy, môi trường của sông Thames mới được cải thiện. Các đợt dịch tả bị đẩy lùi.

Tương tự ở nước Pháp, khi xảy ra dịch tả, Paris là khu phố tồi tàn, với những căn nhà tạm bợ hư nát. Nguồn nước sinh hoạt chính của dân Paris được lấy từ sông Seine, là nơi phần lớn cống rãnh đổ ra. Nhận thức được hậu quả của tình trạng này, vua Napoleon III vạch một kế hoạch lớn nhằm cải biến Paris. Thành phố đã xây dựng được hệ thống cống rãnh thoát nước hiện đại nhất lúc bấy giờ, xóa bỏ được những bãi sình lầy gây dịch tả.

Phải đợi đến năm 1883, người ta mới biết được khuôn mặt của “kẻ giết người” nhờ công trình nghiên cứu của Robert Koch, người từng tìm ra vi khuẩn gây bệnh than, lao.

Theo Sức Khoẻ & Đời Sống

MỚI - NÓNG