Cơ cấu tín dụng VietinBank điều chỉnh tích cực

VietinBank đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển
VietinBank đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển
Tập trung vào tăng trưởng quy mô bền vững, hiệu quả, chú trọng cải thiện chất lượng danh mục và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, VietinBank đang đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển.

Chuyển dịch tích cực cơ cấu tín dụng

Năm 2019, bám sát định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về tăng trưởng tín dụng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, ngay từ đầu năm VietinBank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm trong hạn mức được NHNN giao. VietinBank định hướng tập trung vào tăng trưởng quy mô bền vững, hiệu quả, chú trọng cải thiện chất lượng danh mục và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Báo cáo tài chính cho thấy, tính đến hết 30/9/2019, cơ cấu kinh doanh, cơ cấu khách hàng của VietinBank chuyển dịch rất tích cực, dư nợ tín dụng đạt 917 nghìn tỷ đồng, tiền gửi khách hàng đạt hơn 865 nghìn tỷ đồng. Theo đó, mặc dù tăng trưởng tín dụng ở mức thấp song cơ cấu tín dụng được điều chỉnh tích cực, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực được Chính phủ ưu tiên khuyến khích, tỷ trọng khách hàng cá nhân và SME/tổng dư nợ chiếm gần 55% quy mô danh mục. Với mục tiêu đa dạng hóa danh mục, giảm thiểu rủi ro tập trung, VietinBank đã đề ra mục tiêu tăng tỷ trọng của phân khúc bán lẻ trong danh mục tín dụng. Kết quả tỷ trọng dư nợ bán lẻ tăng trưởng đều qua các năm, từ 28% cuối năm 2017 đã tăng lên 33% ở thời điểm hiện tại. VietinBank đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ VND, kiểm soát tín dụng ngoại tệ phù hợp với cân đối vốn, cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn an toàn, hiệu quả với tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn thấp hơn đáng kể so với hạn mức của cơ quan quản lý.

Đồng thời, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro và các sản phẩm/đối tượng vay có hệ số rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán, cho vay BOT… được VietinBank kiểm soát chặt chẽ thông qua các hạn mức kiểm soát rủi ro trên toàn hàng. Với việc chủ động triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp, biện pháp quản lý chất lượng nợ, thu hồi và xử lý nợ xấu nội bảng, nợ ngoại bảng, nợ bán VAMC, chất lượng tín dụng tại VietinBank không ngừng được nâng cao, tỷ lệ nợ xấu toàn hàng luôn thấp hơn giới hạn yêu cầu của cơ quan quản lý.

Tỷ lệ nợ xấu của VietinBank trong các năm trở lại đây dao động xung quanh mức 1,5%, thuộc Top các Ngân hàng đang niêm yết có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong hệ thống.

Tăng cường giải pháp quản trị chất lượng hoạt động

Cuối năm 2018, NHNN phê duyệt một số nội dung về mục tiêu, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 của VietinBank. Trọng tâm của phương án này là nâng cao năng lực tài chính, nâng cao chất lượng tài sản, khắc phục triệt để các vấn đề còn hạn chế, phát triển hoạt động kinh doanh hiệu quả, an toàn, bền vững, nâng cao tính minh bạch trong quản trị điều hành, quản trị rủi ro, tuân thủ các chuẩn mực hiện đại, tiên tiến trên thế giới.

Qua gần 2 năm triển khai, VietinBank đạt được những kết quả đáng ghi nhận, chất lượng tín dụng được nâng cao cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu cuối quý III/2019 giảm so với đầu năm, đồng thời tỷ lệ bao phủ nợ xấu nâng cao so với cuối năm 2018.

Đại diện VietinBank cho biết: Xác định xử lý nợ xấu là một trong những nội dung trọng tâm trong giai đoạn 2019 - 2020 nên ngân hàng tập trung mọi nỗ lực, tích cực, chủ động triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp thu hồi, xử lý nợ xấu, đặc biệt là các khoản nợ nhóm 5 với mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2019 về dưới mức 1,3%; tỷ lệ bao phủ nợ xấu tối thiểu trên 110%.

Có thể thấy, với định hướng đúng đắn về kiểm soát chất lượng tín dụng, tập trung tăng trưởng hiệu quả, bền vững, chú trọng cải thiện cơ cấu tín dụng, mặc dù liên tục giảm và duy trì lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ doanh nghiệp, nền kinh tế, tỷ suất sinh lời của danh mục tín dụng nói riêng, danh mục tài sản có sinh lời nói chung của VietinBank vẫn được cải thiện tích cực trong năm 2019. Thu nhập lãi của VietinBank tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng quy mô, hiệu quả kinh doanh bám sát mục tiêu đã đặt ra. 9 tháng đầu năm 2019, VietinBank ghi nhận tăng trưởng ngoài lãi rất tích cực với tốc độ tăng trưởng cao so với các NHTM khác, cụ thể thu thuần dịch vụ của VietinBank tăng 53%, thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ tăng hơn 120% so với cùng kỳ. Thu lãi thuần của VietinBank 9 tháng năm 2019 tăng 12% so với cùng kỳ.

Cơ cấu tín dụng VietinBank điều chỉnh tích cực ảnh 1

Trụ sở chính VietinBank

Để làm được điều này, VietinBank đã triển khai hàng loạt các giải pháp để đảm bảo hoạt động tín dụng hiệu quả và an toàn. VietinBank luôn chú trọng nâng cao công tác quản trị rủi ro, đảm bảo thực hiện các quy định về kiểm soát, kiểm toán nội bộ theo đúng và đầy đủ tất cả các nội dung hướng tới thông lệ quốc tế, yêu cầu theo Basel II và quy định của NHNN cụ thể là Thông tư 13. Có thể nói, công tác quản trị rủi ro tại VietinBank đang hoàn thiện và tiệm cận các yêu cầu theo thông lệ quốc tế. VietinBank sẵn sàng đáp ứng các chuẩn mực Basel II theo định hướng của NHNN, đồng thời đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, trở thành ngân hàng nhóm đầu khu vực, hội nhập cùng nền tài chính quốc tế.

Chia sẻ về định hướng nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới, đại diện VietinBank cho biết: Ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng phù hợp với định hướng của NHNN, theo đó tập trung tăng trưởng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện, năng lượng…

Đồng thời, VietinBank thúc đẩy tăng trưởng trọng tâm vào các phân khúc có hiệu quả sinh lời cao như khách hàng bán lẻ và khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cùng với đó là duy trì thị phần phù hợp, giữ vững và chọn lọc những khách hàng tốt, khách hàng có khả năng phát triển đa dạng dịch vụ và bán chéo ở phân khúc khách hàng doanh nghiệp lớn, khách hàng FDI.

MỚI - NÓNG