Hoàn thiện công tác kế toán ngân sách nhà nước và hoạt động nghiệp vụ Kho bạc NN

Hoàn thiện công tác kế toán ngân sách nhà nước và hoạt động nghiệp vụ Kho bạc NN
Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 đang đi đến chặng cuối cùng sau hơn 10 năm thực hiện. Đó cũng là khoảng thời gian chúng ta đã triển khai và vận hành thành công một hệ thống CNTT, hệ thống kế toán máy (TABMIS) lớn nhất ngành Tài chính. Có thể nói rằng, trong quãng thời gian đó, công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN là một trong những hoạt động mang lại nhiều dấu ấn và kỷ niệm đẹp đẽ nhất đối cuộc đời mỗi công chức kế toán tham gia. 

Đồng thời, đó cũng là một bước chuyển mình mạnh mẽ của hệ thống KBNN nói chung và công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng trên con đường thực hiện Chiến lược phát triển cũng như nhiệm vụ mà Chính phủ, Bộ Tài chính giao cho hệ thống KBNN.

10 năm là quãng thời gian đủ dài để nhìn lại, đánh giá đầy đủ về việc thực hiện những công việc lớn trong sự nghiệp của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân. Với những gì đã qua và nhất là những yêu cầu sắp đến, người công chức làm công tác kế toán và đặc biệt là nhà Lãnh đạo, quản lý cần tĩnh tâm nhìn lại công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN để đánh giá, định hướng và có giải pháp hoàn thiện nhằm tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ trong lĩnh vực này.

Theo Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020, gắn liền với chiến lược phát triển công tác quản lý quỹ NSNN, các quỹ tài chính nhà nước khác và công tác quản lý ngân quỹ, công tác kế toán, thanh toán được định hướng cơ bản như sau:

Xây dựng hệ thống kế toán nhà nước thống nhất, hiện đại theo nguyên tắc dồn tích, phục vụ yêu cầu quản lý ngân sách và tài chính công bảo đảm tính công khai, minh bạch;

Phát triển kế toán quản trị phục vụ cho yêu cầu phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra, bảo đảm khả năng phân tích và tính toán được chi phí, hiệu quả của chi tiêu NSNN cũng như yêu cầu lập ngân sách trên cơ sở dồn tích;

Nghiên cứu, xây dựng mô hình KBNN thực hiện chức năng tổng kế toán nhà nước; tổng hợp, xử lý dữ liệu kế toán từ tất cả các đơn vị thực hiện hệ thống kế toán nhà nước; chịu trách nhiệm công bố và cung cấp các số liệu kế toán, tình hình tài chính nhà nước; lưu trữ cơ sở dữ liệu kế toán tập trung.

Hiện đại hóa công tác thanh toán của KBNN trên nền tảng CNTT hiện đại, theo hướng tự động hóa và tăng tốc độ xử lý các giao dịch; bảo đảm dễ dàng kết nối, giao diện với các hệ thống ứng dụng khác; tham gia hệ thống thanh toán điện tử song phương, thanh toán điện tử liên ngân hàng, ứng dụng có hiệu quả công nghệ, phương tiện và hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến của quốc tế. Đến năm 2020, về cơ bản KBNN không thực hiện giao dịch bằng tiền mặt;

Nghiên cứu triển khai thực hiện mô hình thanh toán tập trung, theo hướng mọi giao dịch của NSNN và các quỹ tài chính nhà nước đều được thực hiện qua tài khoản thanh toán tập trung.

Trong thời gian qua, công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN được xây dựng, hoàn thiện, định hướng và phát triển gắn liền với yêu cầu của công tác cải cách quản lý tài chính công và cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống KBNN, với rất nhiều kết quả trong thành công chung của toàn ngành. Sau hơn 10 năm đã qua, phải kể đến những kết quả nổi bật là:

Hệ thống KBNN đã xây dựng và hoàn thiện được bộ khung pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện về công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN, được thể hiện qua nhiều chế tài quan trọng trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ Luật đến các văn bản dưới luật. Những chế tài này được xây dựng theo định hướng cải cách, thông lệ quốc tế và gắn với thực tế triển khai, hoạt động của ngành; đồng thời bám sát bám sát chiến lược phát triển KBNN nói chung và về công tác kế toán, thanh toán nói riêng. Theo đó, các hướng dẫn của KBNN cũng tương đối đầy đủ, chi tiết; từ đó hình thành nền tảng cơ bản, toàn diện về pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp hành chế độ chính sách ngân sách tài chính nói chung và chế độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng.

Xây dựng và triển khai thành công hệ thống TABMIS – hệ thống kế toán máy tập trung, hiện đại, theo thông lệ quốc tế; thay thế cho các hệ thống phân tán trước đây, dựa trên những nền tảng cơ bản rất thuận lợi đảm bảo công tác xử lý giao dịch, yêu cầu tự động hóa, tổng hợp báo cáo… được kịp thời hơn, chính xác hơn. Bên cạnh đó, hàng loạt các hệ thống ứng dụng vệ tinh được KBNN xây dựng và hoàn thiện trên nền tảng của giao dịch điện tử và chữ ký số đã đáp ứng đa dạng các yêu cầu quản lý về thu, chi NSNN, thanh toán, quản lý ngân quỹ… để thực hiện tốt nhiệm vụ của hệ thống KBNN.

Tổ chức bộ máy kế toán từ trung ương đến địa phương được hoàn thiện tương đối chặt chẽ, khoa học, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ kế toán. Đặc biệt, giai đoạn vừa qua cũng là cơ hội tốt cho các công chức thực hiện công tác kế toán được rèn luyện và đào tạo trong môi trường thay đổi về quản lý và công nghệ kế toán. Từ đó hình thành đội ngũ công chức có tư duy và kỹ năng tốt cả về kế toán, quản lý tài chính ngân sách và CNTT.

Với những kết quả đã nêu, đánh giá một cách tổng thể, kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, góp phần tích cực cho các cấp lãnh đạo, chính quyền trong công tác quản lý, điều hành ngân sách, tài chính; từ đó góp phần nâng cao vị trí, vai trò của hệ thống KBNN trong ngành Tài chính và trong mối quan hệ phục vụ của KBNN đối với nhân dân, xã hội.

Tuy nhiên, từ thực tế triển khai thực hiện nhiệm vụ trong thời gian qua, cũng như yêu cầu của giai đoạn sắp đến, thẳng thắn nhìn nhận rằng, liên quan đến công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN, còn một số hạn chế cơ bản như sau:

Khung pháp lý mặc dù đã tương đối đầy đủ và toàn diện, nhưng vẫn còn một số những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, chưa rõ ràng hoặc chưa thống nhất giữa các quy định liên quan, gây khó khăn cho quá trình triển khai công tác kế toán hoặc giải trình khi có thanh kiểm tra. Hầu hết các vướng mắc này là từ nội dung, yêu cầu quản lý ngân sách, tài chính. Với việc trong thời gian ngắn, các cấp các ngành cho ra đời nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tài chính ngân sách, thì hạn chế này là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính hạn chế này lại là một trong những lý do cơ bản làm cho công tác kế toán nghiệp vụ đến nay vẫn còn không ít vất vả và cả rủi ro.

CNTT dù có bước tiến vượt trội so với trước đây, nhưng vẫn còn không ít rườm rà, chắp vá về quy trình, ứng dụng. Các quy trình xử lý nghiệp vụ chưa được tích hợp tối ưu, còn gây khó khăn và vất vả cho công chức nghiệp vụ. Lợi ích của điện tử hóa trong công tác xử lý, lưu trữ chứng từ, tài liệu chưa được tận dụng có hiệu quả. Đó là chưa kể đến hiệu năng xử lý đôi khi còn chưa được kịp thời như mong muốn, nhất là khi KBNN triển khai dịch vụ công điện tử trên nền internet với việc các đơn vị giao dịch tham gia trực tiếp sử dụng dịch vụ của KBNN.

Tổ chức bộ máy kế toán vẫn còn chưa thực sự khoa học, tối ưu với các quy định pháp lý rõ ràng về trách nhiệm các bộ phận, vị trí tham gia. Đặc biệt, yếu tố con người làm công tác kế toán gần đây đã phát sinh những hạn chế và cần đòi hỏi cao hơn cả về chất lượng chuyên môn, hiệu quả chỉ đạo, triển khai thực hiện và động lực cống hiến. Vì những lý do chủ quan và khách quan, sự gắn kết, hiệu quả phối hợp giữa các cấp trong tổ chức bộ máy kế toán cũng như sự cống hiến của mỗi cá nhân cần những tác động kịp thời và mạnh mẽ hơn, cả về khía cạnh kỷ luật và động viên để tạo sức bật mới.

Trên phạm vi triển khai nhiệm vụ, công tác kế toán vẫn còn sự bị động trước những yêu cầu quản lý, những hạn chế của bài toán nghiệp vụ và ứng dụng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của sản phẩm đầu ra. Ở bình diện lớn, công tác kế toán đang cần những định hướng, giải pháp toàn diện, triệt để hơn dưới góc độ khung pháp lý, tổ chức nhân sự và hệ thống CNTT để định vị rõ và phát huy vai trò của công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành.

Sau một thời gian dài phát triển với sự cố gắng không mệt mỏi và đạt được nhiều kết quả, đến nay, những hạn chế đã nêu của công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN cũng cần được đánh giá và chia sẻ với góc nhìn toàn diện. Điều đó cũng là dễ hiểu - như chu kỳ phát triển của mỗi tổ chức, mỗi con người sau những giai đoạn nhất định. Đặc biệt, những hạn chế đó là khi chúng ta nhìn nhận quá trình đã qua trên tinh thần nghiêm túc, cầu thị với mong muốn tốt đẹp hơn trước những yêu cầu của giai đoạn mới trong sự phát triển của ngành và của đất nước.

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện nhiệm vụ, hệ thống KBNN đang tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 để chuẩn bị xây dựng Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2030, trong giai đoạn thế giới và đất nước có nhiều thay đổi. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến Chiến lược phát triển của hệ thống cũng như định hướng phát triển của mỗi lĩnh vực nghiệp vụ, trong đó có kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN. Đặc biệt, việc định hướng hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của hệ thống KBNN nói chung và hoàn thiện công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng trong giai đoạn mới không thể không tính đến sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên phạm vi toàn cầu, đem lại cả cơ hội lẫn thách thức cho chúng ta.

Về cơ hội, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện cho KBNN tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ kỹ thuật số của nhân loại để nâng cao hiệu suất, hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành NSNN; đồng thời, thay đổi cách thức tương tác, giao dịch giữa người dân, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng NSNN với KBNN và giữa KBNN với các cơ quan quản lý nhà nước khác theo hướng: Rút ngắn thời gian trao đổi thông tin và đảm bảo độ tin cậy của thông tin; từ đó, nâng cao hiệu quả quản lý tại các cơ quan, đơn vị và KBNN. Bên cạnh đó, việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân cùng hoạt động trên nền tảng số sẽ tạo ra nhiều dữ liệu có giá trị, làm cơ sở cho việc tăng cường kết nối, trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành; từ đó, hỗ trợ giải quyết các thủ tục được nhanh chóng, hiệu quả và tạo thuận lợi cho công tác phân tích, dự báo của KBNN.

Về thách thức, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi KBNN cần phải có những cải cách cả về cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ công chức… để đáp ứng tốt các yêu cầu triển khai các ứng dụng công nghệ quản lý hiện đại, đặc biệt là CNTT; đồng thời, do sự tác động của khoa học công nghệ cũng dẫn tới sự thay đổi về nhận thức, hành vi của các đối tượng giao dịch, buộc KBNN phải cải cách, hiện đại hóa theo hướng công khai, minh bạch và lấy khách hàng làm trung tâm.

Trong giai đoạn toàn cầu hóa, sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu đẩy mạnh cải cách, định hướng của Đảng, Nhà nước về Chính phủ hiệu quả, Chính phủ kiến tạo, phục vụ, việc hoàn thiện công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN phải nằm trong định hướng, giải pháp chung của hệ thống KBNN. Xuất phát từ kết quả thực hiện công tác kế toán trong những năm qua, từ những hạn chế, tồn tại và đặc biệt là yêu cầu của giai đoạn sắp đến, việc hoàn thiện công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN trong giai đoạn mới cần sớm tập trung vào một số nội dung lớn chủ yếu sau đây:

KBNN cần tập trung vào nhân tố con người, tổ chức bộ máy kế toán, trong đó xác định tác động trước hết vào “đầu tàu” tại trung ương để tạo động lực thúc đẩy tổ chức bộ máy kế toán, cả về chuyên môn nghiệp vụ và sự gắn kết, động lực của toàn hệ thống dọc. Cùng với đó, cần đặc biệt lưu ý đến các vị trí đứng đầu tổ chức bộ máy kế toán tại địa phương. Không chỉ chú ý đến các khía cạnh nghiệp vụ của tổ chức bộ máy kế toán, mà việc quản lý nhân sự kế toán thậm chí cần lưu ý toàn diện đến những tác động cho các vị trí, con người tại những đơn vị cụ thể để tạo sự đột phá cho tổ chức, đơn vị. Suy cho cùng, nhân tố công chức vẫn là then chốt quyết định sự thành bại của tổ chức, lĩnh vực.

Tổng hợp để hoàn thiện kịp thời khung pháp lý còn thiếu hoặc chưa thống nhất, phù hợp liên quan đến lĩnh vực này, trên cơ sở định hướng cải cách và thực tế vướng mắc. Việc này đòi hỏi sự mạnh dạn, quyết tâm và phối hợp chặt chẽ của các cơ quan đơn vị liên quan. Đặc biệt, cần sự chỉ đạo quyết liệt, thống nhất của các cấp lãnh đạo trong việc thay đổi, hoàn thiện khung pháp lý. Điều này xuất phát từ thực tế như đã nêu là các vướng mắc về pháp lý trong thời gian qua chủ yếu không phải từ hướng dẫn của KBNN, mà đến từ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Bên cạnh đó, trong công tác hướng dẫn thực hiện, cần xác định các vướng mắc cơ bản hoặc các nội dung có thể có nhiều cách hiểu khác nhau trong thời gian qua có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác kế toán để sớm giải quyết dứt điểm, tránh rủi ro và vất vả trong công tác triển khai thực hiện; như: Nội dung, cách thức theo dõi, kiểm soát chi thường xuyên, nhất là từ các tài khoản tiền gửi; việc chuyển nguồn các tài khoản tiền gửi có nguồn gốc ngân sách; nội dung chuyển nguồn ngân sách; phạm vi các tài khoản trả lãi, thu phí; công tác lưu trữ điện tử; việc mở tài khoản của các loại đối tượng giao dịch… Mặt khác, các quy định, hướng dẫn chi tiết của trung ương đối với các phần hành nghiệp vụ kế toán cần áp dụng tối đa lợi ích của CNTT và giao dịch điện tử, từ mẫu biểu chứng từ, quy trình xử lý, khai thác và lưu trữ chứng từ, báo cáo, dữ liệu điện tử… để đảm bảo đơn giản và hiệu quả, khoa học hơn cho công tác kế toán, giảm lao động thủ công và sự vất vả của công chức cũng như giảm chi phí xã hội, nâng cao năng suất lao động cho KBNN và cả đơn vị giao dịch.

Mạnh dạn và khẩn trương hoàn thiện, đơn giản hóa, tự động hóa các quy trình nghiệp vụ trên các ứng dụng liên quan trên cơ sở tích hợp ứng dụng và cải cách quy trình, trên nền tảng của Chính phủ số và cải cách tổ chức bộ máy nói chung, bộ máy kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng. Nâng cao hiệu năng của các hệ thống CNTT. Khai thác tối đa các tiện ích nâng cao như kho dữ liệu, ứng dụng cảnh báo, phát hiện rủi ro… Đồng thời, cần sớm rà soát đánh giá toàn diện về kỹ thuật, nghiệp vụ để có những thay đổi lớn cho hệ thống lõi nhằm đáp ứng cho các yêu cầu nghiệp vụ trung và dài hạn theo Chiến lược phát triển KBNN.

Nghiên cứu, phối hợp hoặc báo cáo các cấp lãnh đạo để cải cách, nâng cao hiệu quả và hoàn thiện quy trình, ứng dụng liên quan đến công tác văn thư, trao đổi, phối hợp, việc chỉ đạo, điều hành, đào tạo, họp… giữa KBNN với các đơn vị trong và ngoài ngành tài chính, giữa các đơn vị KBNN, giữa các cá nhân... Trên thực tế, dù là gián tiếp nhưng đây là một lĩnh vực công việc gây mất nhiều thời gian, vất vả và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng, thực hiện các nhiệm vụ KBNN nói chung, ngay tại trung ương cũng như địa phương trong thời gian qua. Việc cải cách này phải dựa trên nền tảng cơ bản là cải cách hành chính và Chính phủ số, điện tử hóa từ khâu xử lý, truyền nhận đến theo dõi, lưu trữ, khai thác kết quả xử lý và dữ liệu lịch sử…

Đặc biệt, các nội dung nêu trên phải được thực hiện gắn liền hoặc phù hợp với các định hướng, giải pháp lớn, toàn diện và dài hạn về khung pháp lý, tổ chức bộ máy, nhân sự, ứng dụng CNTT nói chung cũng như tác động đến công tác kế toán nói riêng, tùy theo từng lĩnh vực nghiệp vụ có liên quan. Các định hướng, giải pháp thay đổi lớn cho các lĩnh vực này có ảnh hưởng, chi phối rất nhiều đến các khía cạnh của công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN, nhất là với chủ trương tổ chức kế toán, kiểm soát chi theo mô hình giao dịch viên. Cụ thể là, đối với thu NSNN, cần xây dựng hệ thống thông tin quản lý thu NSNN thống nhất (bao gồm, thuế, phí, lệ phí và thu phạt vi phạm hành chính) trên cơ sở ứng dụng công nghệ chuỗi khối (blockchain), đảm bảo theo dõi chi tiết theo từng mã khoản thu NSNN (mã ID); đồng thời, tổ chức kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu điện tử thu NSNN giữa các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm cung cấp thông tin, dữ liệu và báo cáo thu NSNN theo thời gian thực.

Đối với chi NSNN, đổi mới cơ chế kiểm soát cam kết chi NSNN, gắn với việc lập và thực hiện kế hoạch ngân sách trung hạn, kế hoạch vốn đầu tư trung hạn, dự toán, kế hoạch vốn hằng năm và việc triển khai thực hiện kế toán ngân sách theo nguyên tắc dồn tích. Đổi mới phương thức kiểm soát chi NSNN qua KBNN. Xây dựng chế độ KTNN áp dụng thống nhất trong các cơ quan, đơn vị thuộc khu vực công (bao gồm kế toán ngân sách và nghiệp vụ KBNN, kế toán đơn vị sử dụng NSNN và kế toán các quỹ TCNN) theo nguyên tắc dồn tích; đồng thời, cung cấp thông tin, báo cáo thu, chi NSNN công khai, minh bạch và theo thời gian thực; báo cáo TCNN theo thời gian gần thực. Đối với hệ thống CNTT cần xây dựng hoàn thiện theo hướng tích hợp, kết nối với các hệ thống của các đơn vị liên quan, trong khung kiến trúc Chính phủ điện tử. Tổ chức bộ máy theo mô hình Kho bạc khu vực và quản lý cá nhân theo các tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm được lượng hóa một cách khoa học, thực tế… Những nội dung này đều có tác động không nhỏ đến việc hoàn thiện công tác kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN trong thời gian tới.

Như vậy, sẽ còn nhiều việc phải làm và đòi hỏi sự cố gắng không nhỏ của hệ thống KBNN nói chung và lĩnh vực kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng để tiếp tục hoàn thiện mình. Phát huy kết quả đã đạt được, với một tầm nhìn rộng và lộ trình, bước đi cụ thể, chắc chắn, dựa trên nền tảng là truyền thống đoàn kết, yêu ngành yêu nghề và cái tâm trong sáng của đội ngũ công chức ở từng vị trí công việc, hệ thống KBNN nói chung, lĩnh vực kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN nói riêng sẽ vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong giai đoạn mới./.

MỚI - NÓNG
Cải tạo chung cư cũ: 'Hời hợt, vô cảm thì 5-10-15 năm sau vẫn thế thôi'
Cải tạo chung cư cũ: 'Hời hợt, vô cảm thì 5-10-15 năm sau vẫn thế thôi'
TPO - “Nếu cán bộ quan tâm đến công việc, hay như tôi nói ở hội nghị Ban Chấp hành là có tình yêu với Hà Nội thì tự khắc đứng dậy, khắc có trách nhiệm với nhân dân, khắc giải quyết các vướng mắc, tồn tại. Nếu cứ chung chung, hời hợt, vô cảm thì 5-10-15 năm sau vẫn thế thôi, không làm được” - Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng nói.