Nâng cao giám sát, phát hiện rủi ro, phòng chống khủng hoảng là những lưu ý của Ngân hàng Nhà nước tại Thông tư 08/2017/TT-NHNN vừa ban hành quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Mới đây, báo cáo trước Quốc hội về vấn đề nợ xấu, Thống đốc Lê Minh Hưng cũng từng cho biết, thời gian qua thông qua công tác thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước đã xử lý nhiều vụ việc vi phạm, đồng thời chuyển hồ sơ vi phạm pháp luật gây ra tổn thất và nợ xấu cho cơ quan điều tra.
Theo Thống đốc, từ năm 2011-2016, theo thống kê Bộ Công an, lực lượng công an (không bao gồm công an các địa phương) đã phát hiện, khởi tố điều tra 95 vụ án kinh tế xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, khởi tố bị can gần 200 cán bộ ngân hàng.
Chỉ tính riêng một số vụ án lớn gần đây trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố xét xử 128 cán bộ ngân hàng, trong đó có nhiều người là Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, thành viên HĐQT, phó tổng giám đốc ngân hàng, với nhiều mức án nghiêm khắc như tử hình, chung thân, trên 20 năm…
Do đó, NHNN sẽ rất quyết liệt trong việc tăng cường giám sát hệ thống, đảm bảo an ninh tiền tệ.
Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, được giao nhiệm vụ thực hiện giám sát an toàn vi mô, giám sát an toàn vĩ mô, bao gồm: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh (sau đây gọi tắt là Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng).
Đối tượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm hoặc có liên quan đến việc thực hiện kết luận thanh tra.
Cũng theo NHNN, khủng hoảng ngân hàng là tình huống xẩy ra khi sự rút tiền đột ngột của người gửi tiền lan rộng ra toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và có thể dẫn đến sự phá sản của các tổ chức này.
Do đó, giám sát ngân hàng phải tuân theo quy định của pháp luật hiện hành; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, kịp thời; không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng giám sát ngân hàng; kết hợp giám sát tuân thủ với giám sát rủi ro; kết hợp giám sát an toàn vi mô với giám sát an toàn vĩ mô.
Bên cạnh đó, phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thực hiện xếp hạng các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Đồng thời phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi ro gây mất an toàn hoạt động, các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hệ thống các tổ chức tín dụng; kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.