Lo áp lực lạm phát và tỷ giá:

Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Tỷ giá, lạm phát tăng khiến nhà điều hành lo ngại
Tỷ giá, lạm phát tăng khiến nhà điều hành lo ngại
TPO - Nhiều lo ngại đặt ra rằng, sự gia tăng mạnh của tỷ giá và lạm phát hiện nay là những biến động nhất thời hay báo hiệu một xu hướng mới.

Khoảng 1 tuần trở lại đây, giá USD trên thị trường tự do tăng tương đối mạnh, có lúc vượt mức 22.900 đồng đổi 1 USD. Giá bán USD tại các NHTM cũng phổ biến ở mức trên 22.880 đồng. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng CPI trong tháng 5/2018 ghi nhận mức tăng 0,55% so với tháng trước và là mức tăng cao nhất của tháng 5 trong vòng 6 năm qua.

Nhiều lo ngại đặt ra rằng, sự gia tăng mạnh của tỷ giá và lạm phát hiện nay là những biến động nhất thời hay báo hiệu một xu hướng mới.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Quyết định số 1158/QĐ-NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là TCTD). Việc tăng này được áp dụng ngay trong ngày đầu tiên của tháng 6/2018.

Theo quyết định này, Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi bằng đồng Việt Nam và tiền gửi bằng ngoại tệ là 0%;

Ngân hàng Chính sách: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Chính phủ;

Các TCTD quy định tại các khoản 1 và 2 theo Điều 1 Quyết định này trong trường hợp được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0% đối với tất cả các loại tiền gửi không phải báo cáo NHNN về số dư tiền gửi huy động bình quân phải dự trữ bắt buộc theo quy định về dự trữ bắt buộc đối với các TCTD;

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Ngân hàng Hợp tác xã áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng với từng loại tiền gửi như sau: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 3% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng đồng Việt Nam kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ của TCTD ở nước ngoài là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ phải tính dự trữ bắt buộc khác không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 7% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ phải tính dự trữ bắt buộc khác kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc;

TCTC khác (ngoài TCTD quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 1 Điều 1 Quyết định này) áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng với từng loại tiền gửi như sau: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 3% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng đồng Việt Nam kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ của TCTD ở nước ngoài là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ phải tính dự trữ bắt buộc khác không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 8% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc; Tiền gửi bằng ngoại tệ phải tính dự trữ bắt buộc khác kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6% trên tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 6 năm 2018 và thay thế các Quyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009, số 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011 và số 1972/QĐ-NHNN ngày 31/8/20111 của Thống đốc NHNN.

MỚI - NÓNG