Cuối đông đầu xuân, đề phòng biến chứng khi mắc thủy đậu

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Chăm con bị thủy đậu, chị Thư 30 tuổi không ngờ đến lượt mình nhập viện vì lây bệnh bởi mụn nước nổi khắp người.

Chị Thư khám tại Bệnh viện E (Hà Nội) trong tình trạng sốt cao, nổi mụn nước ở mặt và lan toàn thân, đau đầu, mệt mỏi. Bệnh nhân phải nhập viện điều trị và theo dõi biến chứng thủy đậu. Trước đó chị chăm sóc con (2 tuổi) mắc thủy đậu và bé nay đã được điều trị khỏi bệnh. Hiện chị Thư vẫn sốt, nổi nốt ban toàn thân, có những nốt bội nhiễm, dịch đục, mủ trắng, có nốt mới mọc…

Trước đó, ngày 4/2, một nam bệnh nhân 23 tuổi ở quận Bắc Từ Liêm mắc thủy đậu cũng phải nhập viện, bỏng nước nổi toàn thân. Bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với một bé 4 tuổi bị thủy đậu.

Thủy đậu là căn bệnh thường xảy ra ở trẻ em. Tuy vậy, có rất nhiều trường hợp phát sinh ở người lớn, nhất là những người hay hút thuốc, sức khỏe yếu, phụ nữ có thai chưa tiêm chủng ngừa.

Nếu bạn không tiêm vắc xin phòng bệnh và hồi bé cũng chưa từng bị thủy đậu thì hãy cẩn thận, nhất là khi tiếp xúc với người có bệnh.

Trong một tháng qua khoa Bệnh nhiệt đới Bệnh viện E tiếp nhận hơn 20 ca thủy đậu. Theo bác sĩ Vũ Mạnh Cường, thủy đậu thường bùng phát vào mùa đông xuân. Trẻ 2-8 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao nhất. Người lớn vẫn có thể nhiễm bệnh nếu không được phòng ngừa đầy đủ. Người lớn, đặc biệt là phụ nữ mang thai, mắc thủy đậu có khả năng biến chứng và nặng hơn trẻ em.

Bác sĩ Lương Thị Thu Hiền, Trưởng khoa Nội nhi tổng hợp, Bệnh viện E cho biết, thủy đậu là bệnh cấp tính do virus varicella zoster gây ra. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp. Dịch tiết ra từ người bệnh có thể lây gián tiếp cho người khác qua đồ vật. Mới đầu, người bệnh có biểu hiện mệt mỏi, nhức đầu, sốt nhẹ, chảy nước mũi, đau họng và trên da xuất hiện các nốt ban đỏ bắt đầu ở vùng đầu, mắt rồi lan ra toàn thân trong vòng 12-24 giờ. Bệnh xuất hiện sau 10-14 ngày tiếp xúc với nguồn bệnh. Thời kỳ lây truyền của bệnh 1-2 ngày trước khi phát ban và trong vòng 5 ngày sau khi xuất hiện nốt bỏng nước đầu tiên.

Bệnh kéo dài 7-10 ngày nếu không có biến chứng, các nốt bỏng nước sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi bỏng nước, không để lại sẹo. Tuy nhiên, nếu bị nhiễm trùng nốt bỏng nước có thể để lại sẹo.

Khi đã mắc bệnh, con người sẽ có miễn dịch suốt đời và ít khi bị lại lần hai. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp tái nhiễm có hay không có biểu hiện lâm sàng. Bệnh thường xuất hiện vào cuối đông đầu xuân, kéo dài sang hè.

Các chuyên gia khuyến cáo, khi trẻ mắc bệnh, cha mẹ cần cách ly trẻ với những người khác chưa có miễn dịch. Tốt nhất là cho trẻ nghỉ học đến khi khỏi hẳn để tránh lây lan. Cha mẹ khi chăm sóc trẻ cũng cần chú ý để tránh không bị lây bệnh. Những đồ dùng như quần áo, khăn mặt của người bệnh cần được ngâm giặt bằng xà phòng, phơi nắng, là ủi. Người lớn có thể lây bệnh của trẻ hoặc trở thành trung gian truyền bệnh.

Đây là bệnh lành tính nhưng cũng có những biến chứng nhẹ đến nặng. Bội nhiễm là biến chứng hay gặp nhất của bệnh thủy đậu, vi khuẩn có thể xâm nhập vào máu gây nhiễm trùng huyết. Ngoài ra, có thể có các biến chứng khác như viêm phổi, não, tiểu não...

Nếu thấy nốt phỏng dạng nước đục chứ không trong, nghĩa là có bội nhiễm vi khuẩn. Trẻ mắc thủy đậu mà ho, sốt tăng trở lại, đau đầu, nôn, chậm chạp hơn... thì cần đưa đến bệnh viện, tránh biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Những biến chứng nguy hiểm của bệnh thủy đậu cần lưu ý:

Nhiễm trùng tại các nốt đậu: Khi nốt đậu bị vỡ hoặc trầy xước, có thể gây viêm tấy, nhiễm khuẩn da gây viêm mủ da, chốc lở thậm chí gây viêm cầu thận cấp... Nếu không chữa trị kịp thời, tổn thương sẽ ăn sâu, lan rộng, để lại nốt sẹo rỗ gây mất thẩm mỹ, nặng hơn còn dẫn đến viêm mô tế bào, nhiễm trùng máu.

Viêm phổi: Biến chứng thường gặp ở người lớn hơn là trẻ em và thường xuất hiện vào ngày thứ 3-5 của bệnh. Biểu hiện sốt cao, thở nhanh, khó thở, tím tái, đau ngực, ho ra máu, đây là biến chứng rất nguy hiểm, bệnh nhân có thể tử vong.

Viêm não: Bệnh thủy đậu có thể gây biến chứng viêm màng não vô khuẩn đến viêm não, thường gặp ở người lớn. Gặp biến chứng này, tỉ lệ tử vong chiếm 5-20%. Ngay cả khi được cứu sống vẫn có thể để lại di chứng nặng nề hoặc phải sống đời thực vật.

Biến chứng với phụ nữ mang thai: Nếu mẹ mắc thủy đậu từ 5 ngày trước đến 2 ngày sau khi sinh, trẻ sinh ra dễ mắc bệnh thủy đậu chu sinh và có tỉ lệ tử vong cao (khoảng 30%).

Nếu mẹ mắc thủy đậu trước sinh trên 1 tuần diễn biến lành tính, khi sinh trẻ có kháng thể nên không nguy hiểm lắm.

Mẹ mắc bệnh thủy đậu khi mang thai dưới 20 tuần sinh con ra sẽ có một tỉ lệ nhỏ (khoảng 2%) bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh với các biểu hiện: sẹo da, nhẹ cân, các bệnh về mắt (đục thủy tinh thể, tổn thương võng mạc...), tay chân ngắn, đầu bé, chậm phát triển tâm thần...

MỚI - NÓNG