Năm 1992, lần đầu tiên tôi được nhà văn Nguyễn Đình Thi trả lời phỏng vấn. Cuộc gặp diễn ra tại một căn hộ trên tầng lầu, của một khu tập thể khá lớn đường Hải Thượng Lãn Ông (quận 5, TP Hồ Chí Minh). Trong cuộc gặp gỡ ấy, nhân nói đến cuộc đổi mới đang diễn ra trong thơ Việt Nam, Nguyễn Đình Thi cho biết:
Năm 1946, ông có được đọc hai bài thơ Tố Hữu, một làm theo thể tự do với câu mở đầu “Đầu hắn mang mũ sắt”, nhưng quên đầu đề và một thuộc thể tám chữ, hình như là Xuân tù nhưng không nhớ đăng trên báo nào.
Sau khi được biết điều này, tôi lần lượt gặp khá nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo, nhà báo và văn nghệ sĩ thuộc thế hệ Cách mạng Tháng Tám để hỏi cho rõ nhưng kết quả vẫn là một số không.
Từ cuối năm 1992 đến cuối năm 1996, trong những chuyến đi nghiên cứu tại Cần Thơ, Long An, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, Tây Nguyên, v.v…, tôi đều dành thời gian cho việc tìm kiếm “tung tích” hai bài. Tại những địa phương ấy, tôi đã vào các thư viện tỉnh hoặc thành phố nhưng không tìm ra một đầu mối nào.
Chiều tối 26/4/1997, tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng – Hà Nội, lần đầu tiên tôi được Tố Hữu, dù không khỏe lắm, tiếp chuyện nồng nhiệt.
Trong cuộc gặp, nhân nhắc đến bài thơ Mười năm mà Tố Hữu quên hẳn chính ông là tác giả, tôi hỏi Tố Hữu về hai bài thơ do Nguyễn Đình Thi kể lại như trên. Tố Hữu trả lời ông chỉ nhớ mang máng một bài tên Xuân tù và bài kia tên Khuya nặng nhưng không rõ lâu nay chúng “lưu lạc” nơi đâu.
Mấy hôm sau, từ Hà Nội, trên đường trở lại TP Hồ Chí Minh, tôi ghé qua Huế một lần nữa. Tại đây, trong một hiệu sách cũ, tôi tình cờ được gặp một cựu chiến binh thời kháng chiến chống Pháp rất yêu những bài thơ Tố Hữu làm từ đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (tháng 12/1946) trở về trước. Vị cựu chiến binh cho biết ông đã được đọc bài thơ Khuya nặng.
Bài này, theo ông nhớ, vẽ lại hình ảnh thảm hại của một tên lính canh là người Pháp hoặc lê dương. Vị cựu chiến binh cũng nói thêm: Sổ tay của ông có chép bài này nhưng từ lâu đã bị thất lạc. Còn bài Xuân tù, ông chưa bao giờ được đọc, chưa bao giờ được nghe tên.
Giữa tháng 5/1997, trở về TP Hồ Chí Minh, tôi đến gặp ngay một trong những chủ tiệm sách báo cũ mà mình quen để hỏi về vấn đề này. Chủ tiệm đã từng tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn từ 1974 (theo lời anh tự giới thiệu với tôi từ khi tôi mới biết tiệm của anh nhiều năm trước).
Anh trả lời: Gay quá nhưng em sẽ hết sức tìm kiếm hoặc “huy động” các đồng nghiệp giúp bác.
Tháng Giêng năm 2001, trong một hội thảo kéo dài suốt một ngày về mấy vấn đề văn hóa dân tộc tổ chức tại tầng hai (tức lầu một) Nhà Khách dinh Thống Nhất (đường Nguyễn Du, TP Hồ Chí Minh), tôi thấy Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và Huy Cận cùng ngồi trên Đoàn Chủ tịch với một vài người khác.
Vì giờ giải lao buổi sáng, tôi đã chào Tố Hữu và nhắc lại cuộc phỏng vấn của mình tại Hà Nội hồi cuối tháng 4/1997 cho nên khi thấy tôi trong phòng tiệc đứng tối hôm đó, Tố Hữu ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ cách bàn tiệc khoảng hơn một mét và bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ bên cạnh. Tôi kể việc viết một cuốn sách nghiên cứu thơ ông và việc lâu nay đi tìm Khuya nặng và Xuân tù nhưng chưa thấy.
Ông bảo: Anh nhiệt tình với thơ mình quá, bao giờ tìm ra, nhớ cho mình biết. Rồi nhắc nhở: Hãy cố gắng nghiên cứu nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp theo hướng tôi đã phát biểu với anh năm 1997. Khi nào có dịp gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh cứ nói: anh Lành chưa bao giờ hiểu khác về anh Văn dù chỉ một phút giây! Đó là lần cuối cùng tôi gặp Tố Hữu.
Cuối năm 2001, tôi có cuộc phỏng vấn một cựu chiến binh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Vị lão tướng cho biết: Ông còn giữ một cuốn sổ tay ghi thơ của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Tố Hữu, Đoàn Phú Tứ cùng một số bài hát của Nguyễn Xuân Khoát, Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, Dương Thiệu Tước, Hùng Lân và một số văn nghệ sĩ khác.
Cuốn sổ, theo lời ông, ghi trong thời gian từ tháng 8/1945 đến cuối 1947. Vị tướng vào buồng trong, tự tay bê ra một thùng thiếc nhỏ và lấy ra cuốn sổ (tuy cũ nhưng không trang nào bị rách). Ông cho tôi xem những trang chép Khuya nặng và Xuân tù. Nét mực nói chung đã phai mờ nhiều, hầu hết các dòng không đọc được. Thật đáng tiếc!
Vị lão tướng nói: Tôi chép hai bài thơ này từ mấy số báo Quyết Thắng nhưng không nhớ là số nào, chỉ nhớ là Quyết Thắng năm 1946, thế thôi.
Hôm sau, tôi đến gặp ngay chủ tiệm sách quen, nhờ tìm giúp báo Quyết Thắng 1946.
Sau đó mấy ngày, một buổi sáng đầu tháng Giêng/2002, tôi lại đến. Chủ tiệm nhào tới siết chặt tay tôi và nói: Đây, đây, Xuân tù và Khuya nặng!
Xuân tù in cuối trang 3 và trang 4 số Tết Bính Tuất 1946 báo Quyết Thắng (cơ quan của Việt Minh Trung Bộ). Còn Khuya nặng in đầu trang nhất Quyết Thắng, năm thứ hai, số 51, ra ngày 22/6/1946.
Tôi chưa kịp gửi Xuân tù và Khuya nặng tới Tố Hữu thì năm 2002, ông đột ngột qua đời!
Anh Lành thân mến, Mười năm những mấy ngàn ngày…
Sau mấy ngàn ngày, tôi đã tìm thấy Xuân tù và Khuya nặng của anh…
Nhật Hoa Khanh
TP Hồ Chí MinhXuân Quý Mùi 2003
Cố đô Thăng Long, Xuân Bính Tuất 2006
Khuya nặng Tặng người tri kỷ Đầu hắn mang mũ sắt, Một thiên đàng Nhạc hồng nổi dậy trong nghiêng ngửa, Ai đó say đêm xuân Đây một mình ai, đứng lặng thinh,
Đêm 30/5/1946 Xuân tù Mời các bạn vui một ngày trọn vẹn, *** Ờ ngộ quá! Hôm nay trong mả sống, *** Đây một lũ quây tròn quanh gốc gội *** Ở đàng kia, trơ tráo một phường chèo, 1940 |