Gian nan gìn giữ sử thi

Anh Nguyễn Quang Tuệ trong một lần trao tiền hỗ trợ cho nghệ nhân hát kể sử thi Ba Na.
Anh Nguyễn Quang Tuệ trong một lần trao tiền hỗ trợ cho nghệ nhân hát kể sử thi Ba Na.
TP - Đau đáu trước nguy cơ Sử thi Tây Nguyên thất truyền, có những người tâm huyết với văn hóa Tây Nguyên, bỏ tiền túi ngày đêm xuống các buôn làng tìm nghệ nhân hát kể sử thi để ghi âm, thuê người dịch và in thành sách để bảo tồn; kêu gọi bạn bè ủng hộ tiền để giúp đỡ những nghệ nhân nghèo khó.

Quyên tiền trả lương nghệ nhân

Một trong những người được đồng bào dân tộc Ba Na quý trọng, nhắc tên là anh Nguyễn Quang Tuệ (Trưởng phòng Quản lý di sản văn hóa, Sở VH-TT&DL tỉnh Gia Lai), người hay la cà ở nhà nghệ nhân người Ba Na để nghe hát, rồi ghi âm lại. Hỏi anh Tuệ việc này, anh cười bảo: “Có lẽ công việc chọn tôi, và tôi cũng yêu thích công việc đó”.

Anh Tuệ có mong muốn lưu giữ, bảo tồn sử thi Ba Na. “Với tôi, sử thi là viên đá có ngọc, vàng bên trong nên rất quý. Sử thi Ba Na lưu giữ trong đầu nghệ nhân, mà những người này đều đã già, trong khi lớp trẻ không chịu học, không còn đam mê. Tôi yêu quý sử thi và sẽ rất buồn nếu loại hình này mất đi. Vậy nên tôi tự đi gom các bài hát kể sử thi đang “ghi” trong đầu các nghệ nhân để cất giữ, khi có điều kiện sẽ dịch thuật, in sách, đưa ra cộng đồng nhằm truyền bá, bảo tồn”, anh Tuệ cho hay.

Gian nan gìn giữ sử thi ảnh 1 Chị Thị Mai mong muốn in sách và mở lớp dạy hát sử thi M’nông cho thế hệ trẻ.

Khoảng 30 năm trước, chàng thanh niên Nguyễn Quang Tuệ một mình rong ruổi mang ba lô xuống nhà nghệ nhân, nhờ họ kể lại để anh ghi âm. “Nhà họ toàn nơi xa vắng, thậm chí cách nhau cả trăm cây số, đường lại khó đi. Hồi đó phương tiện ghi âm rất khó kiếm, tôi dành dụm lắm mới mua được cái máy cát-sét. Do mỗi bài sử thi rất dài, các nghệ nhân không thể kể liên tục, tôi phải vừa ghi vừa chờ,  nhiều ngày mới ghi xong. Những bài sử thi ghi được bằng băng, tôi mang về cất trong thùng xốp cẩn thận. Sau này khi có điều kiện mua máy ghi âm và máy quay chuyên dụng, việc sưu tầm dễ dàng hơn một chút. Ghi âm xong rồi, chẳng lẽ để đấy. Nếu để đấy thì lâu ngày cuốn băng ghi sẽ mốc meo, hư hỏng. Vì thế, tôi quyết định sẽ dịch và in ra sách các bài hát sử thi đã ghi âm”, anh Tuệ cho hay .

Để in sử thi Ba Na, anh Tuệ tìm người rành dịch thuật, tuyển chọn nghệ nhân phù hợp. Anh bỏ tiền sắm cho họ cái đầu đĩa để họ nghe băng mà dịch.

Đến nay, anh Tuệ đã in được 10 cuốn sách Sử thi Ba Na, trong đó có cuốn kinh phí do nhà nước hỗ trợ, có cuốn do anh tự bỏ tiền in. Riêng cuốn sử thi mới nhất, anh in 500 cuốn với giá 60 triệu đồng, đến nay mới trả được tiền in 15 triệu, số còn lại đang nợ.

Tâm huyết với sử thi đến mức anh Tuệ còn khởi xướng cả chương trình “Chung tay bảo tồn sử thi Ba Na Tây Nguyên” suốt 2 năm qua, bằng cách kêu gọi bạn bè hỗ trợ kinh phí cho các nghệ nhân hát Sử thi Ba Na nay đã già yếu, không thể lao động nặng nhọc được nữa, cuộc sống rất khó khăn.

Hiện anh Tuệ đã vận động được hơn 105 triệu đồng. Anh dùng số tiền này để “trả lương” mỗi nghệ nhân 300 ngàn đồng/tháng. Tổng cộng có 8 nghệ nhân Ba Na hát kể sử thi ở 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum được nhận tiền hỗ trợ. Đây đều là nghệ nhân trên 65 tuổi, chưa được hưởng một chế độ chính sách nào.

Khát khao truyền dạy sử thi

Trong căn phòng cố nghệ nhân Điểu Kâu từng làm việc (xã Đắk Ndrung, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông), những tư liệu cả cuộc đời ông sưu tầm, biên soạn và biên dịch được con gái Thị Mai để ngăn nắp. Chị Mai (43 tuổi) là người duy nhất trong đồng bào M’Nông vừa biết hát, vừa biết dịch Ot Ndrong ra tiếng Việt. Chị đang tiếp tục hoàn thành công việc còn dang dở của bố mình để lại và ngày đêm mong ước thành lập trường dạy hát Ot N’drong (sử thi M’Nông - PV) cho lớp thanh niên M’Nông.

Đưa cho tôi xem những công trình cuối cùng của bố, chị Mai rưng rưng: “Đây là tất cả những gì mà bố muốn để lại cho con cháu!” Đó là Từ điển M’Nông - Việt; Kho tàng Tục ngữ - ca dao M’Nông; Dân ca M’Nông và Gia phả M’Nông. “Trước khi bố tôi mất, ông còn dang dở các bộ sưu tập tục ngữ ca dao, dân ca, gia phả của người M’Nông đã và đang sinh sống từ Bình Phước đến Đắk Lắk, Đắk Nông. Đây là những tác phẩm mà bố tôi lúc sinh thời phải bỏ nhiều công sức, lặn lội đi khắp các buôn làng mà người M’Nông sinh sống để sưu tầm. Bố tôi cũng chưa kịp hoàn tất 2 tác phẩm sử thi M’Nông, còn 50 tác phẩm sử thi M’Nông khác chưa được ghi băng để biên soạn và biên dịch sang tiếng Việt”, chị Mai ngậm ngùi kể.

Nhờ công sức nghiên cứu, sưu tầm của cố nghệ nhân Điểu Kâu về Ot Ndrong, đến nay đã có 120 sử thi được thu băng và 40 sử thi được biên soạn ra tiếng M’Nông, sau đó biên dịch ra tiếng Việt. Chị Mai tâm sự: “Trách nhiệm của tôi phải tiếp tục biên soạn và biên dịch 80 sử thi còn lại. Đáng lo nhất còn 20 bài sử thi chưa thu băng mà chú K’lung thuộc nằm lòng nhưng bây giờ mắt chú đã mờ, sức khỏe của chú bắt đầu yếu rồi, nếu không ghi băng kịp thì nguy cơ sẽ mất khi chú K’lung qua đời. Hồi năm 1995, Viện Nghiên cứu văn hóa có “đặt hàng” chú K’lung hát kể Ot N’drong và thu băng với giá 150 ngàn đồng/băng. Bây giờ, tôi bận rộn con nhỏ, phải lên nương rẫy kiếm lúa nuôi con và cũng không có tiền để nhờ chú K’lung hát thêm được nữa. Mong Nhà nước quan tâm, mở trường dạy hát sử thi M’Nông, giúp tôi hoàn thành tâm nguyện của bố”.

MỚI - NÓNG
Những bộ phim đầu tiên về chiến dịch Điện Biên Phủ
Những bộ phim đầu tiên về chiến dịch Điện Biên Phủ
TP - Ngày 15/3/1953, nền Điện ảnh Cách mạng Việt Nam được thành lập tại chiến khu Việt Bắc. Một năm sau, ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra. Khi đó, trước và sau chiến dịch Điện Biên Phủ, điện ảnh Việt Nam đã có những bộ phim đầu tiên nói về chiến dịch này.