Một người xơ xác vì... thơ

Một người xơ xác vì... thơ
TP - Trong bài thơ “Phỏng vấn Thạch Quỳ” tôi có viết: Nếu được tái sinh xin lại làm thi sĩ/Để được tự do xơ xác vì thơ. Thực ra thì nhà thơ Thạch Quỳ ở Vinh chưa xơ xác mấy vì thơ. Trong số bạn thơ tôi biết, có lẽ Lê Đình Ty ở Đồng Hới là người “xơ xác vì thơ” nhất.
Một người xơ xác vì... thơ ảnh 1
Lê Đình Ty

Con đường thơ ca với Lê Đình Ty vô cùng lận đận. Đang học dở cấp ba, Ty nhập ngũ vào ngành công an. Anh được đi học một khóa nhiếp ảnh pháp y. Nhưng rồi Ty lại say mê chụp ảnh nghệ thuật, nên chuyển ra công tác tại ngành văn hóa. 

Lê Đình Ty sống nhiều năm ở Huế, anh là tay máy bậc 7, thường đi dạy nghề và chấm tay nghề cho thợ nhiếp ảnh của tỉnh hàng năm. Anh là nghệ sĩ nhiếp ảnh có hạng của hiệu ảnh Phú Xuân bên chân cầu Trường Tiền hồi chung tỉnh Bình Trị Thiên.

Anh có bức ảnh nghệ thuật Hồn rừng được tặng Huy chương Bạc của Hội Nghệ sĩ nghiếp ảnh Việt Nam năm 1996. Giỏi nghề ảnh như thế dễ làm giàu lắm, nhưng Lê Đình Ty thì: Nợ cơm áo níu còng lưng bóng xế/Bao nỗi niềm gửi dấu trang thơ...…

Bởi mỗi lần gặp bạn bè, gặp người đẹp thì có bao nhiêu phim anh bấm bằng hết, rồi thức suốt đêm, lui cui tráng ảnh để kịp sáng mai đem tặng người đẹp, cùng với những bài thơ nóng hổi ở túi ngực bên trái!

Có lần, hồi Ty đang quản lý hiệu ảnh nhà nước trên đường Trần Hưng Đạo, Huế. Một đêm mưa, tôi, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Mai Văn Hoan đến phòng ảnh của Ty (cũng là chỗ trọ) đọc thơ với nhiều người đẹp sinh viên. Ty bốc lên đẩy dàn máy ảnh của hiệu ra chụp. Khi mọi người đã lui rồi, tôi và Ty ở lại  để rửa ảnh cho đến 2 giờ sáng, cho kịp sáng mai tặng các nàng.

Người ta chụp ảnh ai cũng giàu, xây nhà mua xe, chỉ riêng Lê Đình Ty càng chụp ảnh càng nghèo rớt mùng tơi! Vợ chồng đã sắm đủ loại máy ảnh xịn của Nhật, rồi sắm cả buồng tối để in sang ảnh ở nhà mình. Nhưng, do chụp ảnh ba phần tặng một phần lấy tiền nên sinh lỗ lã. Thế là  anh bán dần máy móc, chỉ còn giữ lại cái máy ảnh  để chụp chơi.

Thơ phú còn làm anh bị tai họa thập tử nhất sinh bởi một con quỷ đội lốt người tình! Năm 1983, Lê Đình Ty được Công ty nhiếp ảnh Bình Trị Thiên  cử ra làm Trưởng hiệu ảnh quốc doanh tại chợ Tréo, huyện Lệ Ninh (cũ). Một người con gái trắng trẻo, đã có chồng, do yêu thơ và phục tài chụp ảnh của Ty, đã đem lòng thương trộm. Ty say thơ, say người đẹp bị hớp phải bùa mê.

Bên bờ sông Kiến Giang ấy, Lê Đình Ty đã làm tặng nàng nhiều bài thơ tình lửa cháy. Thế rồi chồng nàng phát hiện ra. Anh ta bắt vợ phải “thể hiện lòng chung thủy”. Thế là nàng đã đang tâm vô tận Huế mua một lọ a - xit. Rồi một đêm “nàng” hẹn Lê Đình Ty gặp nhau tại bờ mương An Xá, tạt a xít vào mặt anh.

Lê Đình Ty bị cháy sém mặt mày, phải điều trị khắp nơi mấy năm trời mới lành vết thương. Nhưng khuôn mặt thì thành sẹo. Đó là “cái sẹo thơ” oan nghiệt mà anh phải mang suốt đời. Từ đó, bao nhiêu tiền của đều chi cho việc chữa bệnh.

Lành vết thương cơ quan xét cho anh về hưu non. Thời điểm đầu năm 2005, lương anh tháng chỉ 320 ngàn đồng. Nhà đã nghèo, lại nghèo thêm. Tôi ốm đau chẳng làm gì được/Vợ một mình chạy bảy miệng ăn, nên anh đau xót khi nghe con gái nhỏ mới năm, sáu tuổi ra đường ngồi bán nước, báo tin “vui” cho bạn bè: Giữa trưa hè dầm dề áo ướt/Được hai đồng, mừng rỡ con khoe...

Trong bài thơ “Cảnh nhà”, cảnh tượng còn thương cảm hơn: Vợ trực về nhịn đói/Lo chạy bữa ngày mai... Bà vợ phải vừa đi làm việc nhà nước, về trồng rau, nuôi heo gà, đi hái củi bán mới trang trải đủ chi tiêu  tằn tiện của gia đình.

May mà Lê Đình Ty có người vợ tuyệt vời. Một người vợ tần tảo như cô Tấm, rất mực thương chồng, thương con, nên bao nhiêu nỗi đau đớn, túng bấn đều được hóa giải! Y sĩ điều trị Nguyễn Thị Thêm vợ Lê Đình Ty làm việc ở Phòng khám cán bộ Đồng Hới, mặc cho thiên hạ gièm pha, đã tận tình chữa trị, chăm sóc chồng.

Thêm nhiều lần vay mượn tiền bạc đưa chồng ra Hà Nội vá da mặt. Những ngày đó, có lần tôi từ Huế ra thăm Ty. Anh ngồi trong một khung màn để che ruồi như cái lồng bàn, vì vết thương đang sưng tấy.

Chồng bị nạn vì thơ, người làm thơ như tôi là những kẻ “tòng phạm” đến nhà phải “ghét” mới đúng. Thế mà Thêm vẫn tươi cười pha nước mời, rồi bảo tôi “Anh ngồi chơi nói chuyện với anh Ty, em ra đây một lát về ngay”. Thì ra nàng lẻn đi mua đĩa mồi, xị rượu mang về, bảo tôi: ”Anh đọc thơ cho anh Ty nghe, anh ấy đang thèm thơ lắm đấy !”.

Chao ôi, một tình yêu, một tấm lòng. Cao hơn, một tầm văn hóa bao dung mênh mông!

Sau tai nạn ấy, Lê Đình Ty không thể đi làm cơ quan được, phải về hưu mất sức hai trăm ngàn đồng một tháng. Đến nay thì  lương hưu của Ty  cũng chỉ 680 ngàn  đồng! Con thì ba đứa đang nhỏ, nên gia đình càng khó khăn hơn. Nhưng anh vẫn không bỏ thơ. Hình như thơ đến với anh còn nồng nàn hơn trước.

Tuy muộn mằn so với bạn bè cùng lứa nhưng đến nay anh đã xuất bản được 6 tập thơ, đó là sự kỳ lạ của khả năng vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của con người.

Tôi kể lan man như vậy để muốn nói một điều: Đối với Lê Đình Ty thơ là nghiệp chướng, là định mệnh không thể chối bỏ: Đây, câu thơ/Giọt máu/Câu thơ đẫm đầy nước mắt...

Riêng đối với tôi, mỗi bài thơ của Lê Đình Ty là sự trổ bông của một trái tim đau đớn một đời đập vì yêu, vì sự tốt lành của cuộc sống!

Hội Văn nghệ Quảng Bình bảo Lê Đình Ty làm đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam. Ty gửi cái đơn vào Huế nhờ tôi và nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là bạn thân ký giới thiệu để kỷ niệm bạn bè. Mỹ Dạ bận đi họp  ở Hà Nội. Hoàng Phủ Ngọc Tường hỏi, đơn ai thế. Tôi bảo của Lê Đình Ty, gửi vào nhờ Dạ ký.

Hoàng Phủ bảo tôi: “Lê Đình Ty mới là nhà thơ thực sự, hắn sống chết vì thơ. Đem đây mình ký thay Mỹ Dạ’’. Thế là ông Tường liệt nằm một chỗ, lật nghiêng người  ghi ‘’Đề nghị kết nạp‘’ rồi ký tên, chữ cong queo, võng xuống như nỗi đa mang.

Tôi mang ra Đồng Hới cho Ty, Ty cầm tờ giấy có chữ ký Hoàng Phủ reo lên: “Được Hoàng Phủ Ngọc Tường ký giới thiệu như ri là  sướng lắm rồi. Như là một lần vô Hội rồi...”. 

Để in tập thơ “Lời hạt”, Lê Đình Ty phải thế chấp “thẻ đỏ” nhà, mới vay được 3 triệu tiền ngân hàng để in thơ! In xong thơ là gửi tặng bạn bè, lại phải một lần tốn phí bưu điện, rồi lại  còng lưng làm vườn, nuôi gà, lợn, nuôi cả cá  rô phi đơn tính để trả nợ thơ. 

Tập thơ Lời hạt gồm những bài thơ viết trong những tháng ngày anh bị “tai nạn tình yêu” đến thay đổi hình hài, trong lúc cảnh nhà túng bấn. Đó là những suy nghĩ về đời và thơ, về số phận và tình yêu của con người đã vào tuổi tri thiên mệnh.

Đó là tâm sự riêng của đời anh. Tai ương, khốn khổ và day dứt tình đời, tình người. Thương cho kiếp người phù du khát vọng, thương cho những đứa con xa luôn đau đáu một làng quê, thương bóng hình mẹ già côi cút vô ra nơi cõi nhớ, thương những người tình với nỗi buồn làm hành trang còn lại...

Thơ là sự chiêm nghiệm, là một cuộc trở về từ trong cõi lãng du phiền muộn, cầm lên những mất mát và soi tận cõi lòng: ... Ai sau rèm cấm xa xôi/Nhớ người áo ướt dưới trời đem hong?

Thời “di động”, Lê Đình Ty nghèo, thèm lắm mà không làm sao có “con dế cầm tay” để gọi bạn bè. Thương bạn, nhà văn Nguyễn Thế Tường bán rẻ cho Ty một cái Samsung có hai trăm bạc. Lúc đầu Ty chỉ dám mua loại card chỉ để nghe, không gọi được. Những khi có tiền nhờ nghề làm mi, in ấn sách cho các tác giả, Ty mua cái card trăm ngàn, thế là hứng lên gọi ai cũng đọc thơ qua di động. Chỉ ba bốn bài thơ đã hết nửa tiền card.

Thế rồi lần ấy Ty say, ngã xe, con dế biến đi đâu mất, phải nhịn gọi ba tháng trời. Tôi ra Đồng Hới, thấy bạn mà thương, tôi liền nghĩ ra một kế: Chỉ có mấy trăm trong túi, nhưng tôi dẫn Lê Đình Ty đi thăm bạn bè, gặp ai tôi cũng bảo: “Ty mất điện thoại rồi, tớ ủng hộ nó ba trăm, cậu cho thêm một ít nữa cho nó mua cái điện thoại cũ kẻo tội”. Thế mà ngày đó hai đứa kiếm được triệu tư bạc. Chiều rủ nhau đi mua “dế”…

Buồn quá, nhưng xem ra tất cả vẫn còn. Một người “sau rèm cấm”, tấm “áo ướt”, và người tình trắng tay đang đem hong lại niềm yêu mến cũ... Ty say thơ đến độ, vào cuộc rượu nào ban đầu cũng rất gìn giữ, chối từ, nhưng khi đã đọc vài bài thơ thì “rượu như lửa tôi uống tràn thay nước” (Phùng Quán). Thế là Ty say.

Vì say mà trong năm năm qua, Ty đã sáu lần ngã xe máy rồi. Khi thì gãy xương vai, khi thì bươu đầu, mẻ trán. Nhưng may toàn vết thương nhẹ, nằm nhà vợ điều trị năm bữa nửa tháng lại lang thang.

Có lần tan cuộc rượu, đáng lẽ về nhà theo hướng núi, thì Ty lại lao xe ra vùng cát Hải Thành mé biển giữa hè “chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Xe lủi vào ụ cát bên đường, Ty ngã bắn người ra nằm phơi trên cát bỏng. May nhờ có người đi qua, nhận ra nhà thơ, liền gọi  taxi đưa về nhà, chứ để  đến chiều chắc đã thành “Khô Ty” rồi! Có lẽ Ty đã quá xơ xác vì thơ, nên bây giờ thơ đã cứu Ty chăng?

Vâng, trong bài đồng dao miền Trung kể về mẹ gà đẻ  ấp mười quả trứng, cả mười đều bị hiểm họa và rủi ro số phận, nhưng: Chớ than phận khó ai ơi/Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây... Mất mà được. Đó là cái lý sinh tồn mà chỉ nghệ thuật mới nói lên được, nhờ cái tâm lớn của nghệ sĩ!  Cái còn lại ấy, cõi lòng ấy chính là sợi chỉ xuyên suốt thơ Lê Đình Ty. Không mà có, ấy là khi cõi lòng còn chan chứa! 

Bây giờ anh vẫn yêu si mê như thế. Vẫn làm thơ như thế. Anh đi lên hồ An Mã miền trung du Lệ Thủy, anh ra tận Minh Hóa theo tiếng gọi của con tim. Đi rong chơi suốt ngày. Để rồi cuộc rượu vui nào anh cũng có thơ mới đọc cho bạn bè làm thức nhắm...

Người sống nghèo với chất thi sĩ lãng tử nồng nàn như Lê Đình Ty hiếm hoi lắm. Nhờ những cuộc say ấy, năm 2007, Lê Đình Ty cho ra mắt tập thơ  Gửi cùng ngọn gió, với  chất  thi sĩ tang bồng: Ngồi buồn bấm chữ mà chơi/Gửi người người có ngậm ngùi cùng ta...

Huế 2003 - 2007

MỚI - NÓNG