Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã ra đi

Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã ra đi
TP - Bệnh có thể chữa nhưng mệnh thì không. Khi tuyển tập “Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc” ra đời (1/2006) thì cũng là lúc Đồng Đức Bốn không còn chống cự được nữa. 10h30 ngày 14/2, con chim mỏ vàng đã ngưng tiếng hót.
Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã ra đi ảnh 1
Người yêu thơ vây quanh góc thơ Đồng Đức Bốn trong Ngày thơ Việt Nam lần IV

Nhà thơ Đồng Đức Bốn, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng đã từ trần tại nhà riêng, xóm Lê Lác, thôn Song Mai (tức làng Moi), xã An Hồng, huyện An Hải, Hải Phòng.

Đồng Đức Bốn sinh ngày 30/3/1948. Thời trẻ ông từng tham gia thanh niên xung phong, sau đó về làm việc tại Xí nghiệp sửa chữa ô tô Hải Phòng, là thợ gò bậc 6/7.

Sau đó, Đồng Đức Bốn chuyển đến Xí nghiệp xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng, rồi làm đại diện cho Xí nghiệp ở Hà Nội. Thời gian này ông bắt đầu công bố những sáng tác đầu tiên.

Năm 1992, Đồng Đức Bốn xuất bản tập thơ đầu tay “Con ngựa trắng và rừng quả đắng”.

Ngay từ tập thơ đầu tiên, ông đã bộc lộ thiên hướng trong thơ lục bát, thể thơ sau này làm nên tên tuổi của ông - thi sĩ đồng quê. Năm 1993, ông in Chăn trâu đốt lửa. Bẵng đi tới 7 năm (2000), ông mới lại cho ra liền 2 tập “Trở về với mẹ ta thôi” và “Cuối cùng vẫn còn dòng sông” ; hai năm sau (2002) là “Chuông chùa kêu trong mưa”.

Tên mỗi tập thơ đều là một câu hoặc một phần câu thơ lục bát. Phải chăng ông đã chọn lục bát cho nghiệp thơ của mình, hoặc giả thể thơ này đã chọn ông?

Cho đến nay, theo bè bạn thì ông có khoảng 600 bài thơ lục bát và 200 bài thơ tự do hoàn chỉnh; trong đó có khoảng 50 bài thơ được các nhạc sĩ tên tuổi phổ nhạc.

Đồng Đức Bốn tự nhận xét “Trở về với mẹ ta thôi” là thời kỳ đỉnh cao của mình. Còn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì cho rằng Đồng Đức Bốn có tới 60 bài thơ được gọi là “tài tử vô địch”, là “những viên ngọc thực sự”.

Đồng Đức Bốn từng được một số giải thưởng văn học: Cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (2 lần), Tạp chí Văn nghệ Quân đội (2 lần), “Tầm nhìn thế kỷ” của báo Tiền Phong, giải A của UB Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam...

Nhưng cứ theo ý riêng của người viết bài này thì giải thưởng lớn nhất dành cho ông chính là những câu thơ lục bát được chép khá nhiều trong sổ tay người hâm mộ và ở trong nhiều câu cửa miệng của đồng nghiệp khi nhắc tới ông.

Đồng Đức Bốn phát hiện mình mắc bệnh hiểm nghèo vào tháng 5/2005. Thời gian đầu, đều đặn hàng tuần ông lên Hà Nội xạ trị rồi hóa trị. Bạn bè khắp nơi đến thăm ông, kỳ hoa, dị thảo, ai có thứ gì đều mang đến mong giúp ông lật ngược thế cờ trong cuộc chiến với căn bệnh ung thư quái ác: “Sừng tê giác, cổ linh chi/Thuốc men nào có thiếu gì nữa đâu”.

Thật ngạc nhiên, đây lại là thời kỳ sức viết của ông trở lại. Hầu như ngày nào ông cũng viết từ một đến hai bài thơ, buồn, lung linh như khi ông vẫn còn sung sức nhất, tổng cộng có đến khoảng 50 bài.

Ông tin thơ có thể giúp mình chống lại bệnh tật và lạc quan: “Tôi không thể chết được đâu/Bởi tôi còn khúc sông sâu lụy đò”...”Tôi còn nợ cả mùa thu/Cỏ xanh như tiếng hát ru ở đời”...

Nhưng ông cũng âm thầm chuẩn bị cho ra tập sách mới, cuốn sách cuối cùng, dày hơn nghìn trang, được coi là tuyển tập một đời thơ Đồng Đức Bốn.

Hỡi ôi, bệnh có thể chữa nhưng mệnh thì không. Khi tuyển tập “Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc” ra đời (1/2006) thì cũng là lúc ông không còn chống cự được nữa.

Gia đình cho biết, ông không nói được, liên tục phải dùng moóc-phin tới mức mụ mị cả người để chống lại những cơn đau xé ngực. Vậy mà ông vẫn gửi thơ đến Ngày thơ Việt Nam lần thứ 4.

Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, ông kịp đọc cho con gái út chép hai câu thơ tự chọn, như một tuyên ngôn, để chia sẻ với bạn đọc ở góc thơ của mình trong ngày hội thi ca: “Đừng buông giọt mắt xuống sông/Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”.

Tôi tin rằng ông đã cố gượng qua Rằm để chứng kiến hết ngày thơ trên giường bệnh qua một kênh tâm linh nào đó. Vào lúc 10h30’ ngày 14/2/2006 (tức 17 tháng Giêng năm Bính Tuất), con chim mỏ vàng đã ngưng tiếng hót.

Lễ truy điệu nhà thơ Đồng Đức Bốn sẽ được tổ chức vào 8h sáng ngày thứ Sáu 17/2/2006, tại nhà riêng của ông tại Hải Phòng, an táng tại nghĩa trang quê nhà.

MỚI - NÓNG