Chuyện người tử tù có một không hai (kỳ 2)

Chuyện người tử tù có một không hai (kỳ 2)
TP - Lê Quang Vịnh và các anh/Tiểu đội anh hùng của tuổi xanh/Mười hai tên mạnh như tên lửa/Chấp hết gươm treo, án tử hình/“Tiểu đội anh hùng của tuổi xanh”.
Chuyện người tử tù có một không hai (kỳ 2) ảnh 1
Anh Lê Quang Vịnh (phải) và nhà thơ Ngô Minh

>> Kỳ 1

Đó là khổ thơ mở đầu bài thơ “Tiểu đội anh hùng” nhà thơ Tố Hữu viết sau khi nghe tin bản tuyên án hà khắc của  Tòa án quân sự đặc biệt của ngụy quyền Sài Gòn ngày 23/5/1962 đối với 12 thanh niên sinh viên học sinh yêu nước Sài Gòn- Gia Định.

Hồi đó, nhiều văn nghệ sĩ lớn ở miền Bắc như nữ thi sĩ Anh Thơ, nhạc sĩ  Lưu Hữu Phước, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ… đã có ngay những sáng tác rực lửa  ca ngợi  những  người thanh niên bất khuất, ca ngợi người trí thức hiên ngang Lê Quang Vịnh.

Hình ảnh giáo sư Lê Quang Vịnh hiên ngang trước tòa án binh Sài Gòn trở thành một biểu tượng cho khí phách của tuổi trẻ miền Nam mà thanh niên miền Bắc thời đó ai cũng xúc động, cũng nhớ nằm lòng.

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1960. Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, phong trào sinh viên trong các trường đại học Sài Gòn bị bể trong năm 1959, nay đã được tổ chức lại. Đã hình thành được Ban cán sự Đảng và Khu đoàn ủy Thanh niên Sài Gòn – Gia Định, cùng Ban vận động Thanh niên học sinh sinh viên (trong đó có một chi bộ Đảng sinh viên) do các anh Trần Quang Cơ (Tám Lượng), Hồ Hảo Hớn (Ba Lực), Lê Minh Châu, Lê Hồng Tư lãnh đạo.

Lê Quang Vịnh là Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành, Trưởng Ban cán sự sinh viên. Năm 1961, trên chủ trương đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh vũ trang để gây áp lực, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị. 

Lực lượng vũ trang  thanh niên, sinh viên đã tiến hành nhiều trận đánh như ném lựu đạn MK2 vào xe tuần tiễu giết chết 8 tên lính dù ngụy; đốt cháy một kho xăng của quân đội ngụy, ném thủ pháo vào xe chở Đại sứ Mỹ Nolting, giết hụt tên này; đánh vào cư xá Mỹ; phục kích diệt tên đại tá cố vấn chỉ huy xây dựng phi trường Tân Sơn Nhất.v.v…

Phong trào đấu tranh vũ trang đã lôi cuốn cả những lính biệt động Sài Gòn như anh Huỳnh Văn Chính, Nguyễn Văn Mẹo tham gia. Những trận đánh đó làm cho bọn an ninh quân đội Sài Gòn điên đầu. Chúng thúc giục quân lính lùng sục truy tìm thủ phạm. Và chúng đã bắt được hàng chục người, trong đó có thường vụ Khu đoàn Lê Hồng Tư, học sinh Lê Văn Thành…

Anh Lê Quang Vịnh kể, tháng 8 năm 1961, anh vừa đi chấm thi ở Huế về thì có thư của trên gọi ra căn cứ. Anh theo giao liên đến Khu đoàn ở  Đức Hòa. Anh Tám Lượng cho biết, ngày 22/8/1961, ở Hà Nội sẽ diễn ra Hội nghị sinh viên Quốc tế  chống chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Anh Vịnh có nhiệm vụ phải thảo bức Thư của Hội liên hiệp sinh viên Giải phóng và  Bản báo cáo về phong trào đấu tranh của  sinh viên học sinh miền Nam Việt Nam gửi cho Hội nghị.

Mười ngày ròng dùng cái chõng tre của anh Ba Lúa làm bàn viết, Lê Quang Vịnh đã hoàn thành hai văn kiện ấy. Nhưng hai tài liệu ấy đã không gửi ra Hà Nội được, vì đang đêm căn cứ của Khu Đoàn bị địch bất ngờ càn vào.

Bốn giờ sáng, Vịnh nhét vội hai văn kiện vào bòng (“bòng” là cái túi đeo của cán bộ, bộ đội giải phóng miền Nam may bằng vải dù, thay ba lô) đeo vào lưng chạy ra rìa làng.

Ở Đức Hòa không có rừng như Củ Chi nên rất khó nấp. Thấy nguy hiểm, anh Hồ Hảo Hớn lệnh cho mọi người cất giấu tài liệu. Vịnh giấu cái bòng của mình vào lùm dứa dại. 

Pháo địch bắn cấp tập. Trực thăng “cá rô” chỉ điểm cho xe lội nước tràn tới. Rồi lính dù ngụy tràn vào, tiếng tiểu liên AR15 bắn xối xả bốn bên. Tiếng người la hét. Ba đồng chí bị bắt và bị bắn chết ngay, trong đó có anh Tám Lượng. Lê Quang Vịnh cũng bị bắt sau đó. Một tên trung sĩ nói tiếng Huế hỏi anh

”Mày làm gì ở đây?”. Vịnh nói: Tôi là học trò trong Sài Gòn ra thăm vùng giải phóng”. Nghe tiếng Huế, hình như anh ta động lòng trắc ẩn, muốn cứu “đồng hương”, nên khi thấy tên trung uý rút súng định bắn, anh trung sỹ vội nói to ngay:

- Để tên này lại để lãnh thưởng chớ, thưa trung uý?

Vừa nói, anh ta vừa đẩy Lê Quang Vịnh về phía làng, giao cho toán lính canh giữ. Nếu không có “người đồng hương Huế” ấy chắc Vịnh đã chết sáng hôm đó rồi. Bọn an ninh quân đội ngụy tổ chức khai thác ngay.

Chúng lùng sục phát hiện ra  bòng tài liệu của Vịnh giấu trong bụi dứa gai. Qua thẻ giáo sư, chúng nhận ra anh là Lê Quang Vịnh, giáo sư trường Petrus Ký, và qua những tài liệu trong bòng, chúng biết anh là một người lãnh đạo phong trào sinh viên học sinh Sài Gòn…

Những ngày đó, các báo xuất bản ở Sài Gòn liên tiếp đăng tin ảnh “Bắt được hàng chục tên Việt Cộng ngay giữa Sài Gòn”, “Giáo sư Lê Quang Vịnh, một chỉ huy Việt Cộng đã bị bắt”.v.v...…

Suốt 9 tháng sau khi bị bắt, Lê Quang Vịnh bị chuyển qua nhiều trại giam. Bị tra tấn liên tục. Mục đích của chúng là tìm ra toàn bộ  tổ chức cách mạng trong sinh viên học sinh. Nhưng chúng không tìm ra chứng cớ gì, cuối cùng chúng  ghép anh vào vụ mưu sát đại sứ Mỹ Noltinh cùng với anh Lê Hồng Tư và 10 thanh niên học sinh khác.

Đến ngày xử án, bọn công an ngụy giam tất cả 12 người vào chung một phòng, nên anh Vịnh có điều kiện để biết rõ thêm tên tuổi và hoàn cảnh từng người. Các anh còn bàn  nhau khi ra tòa phải thể hiện thái độ như thế nào, xưng hô như thế nào để giữ thể diện, khí tiết  là người cách mạng. 

Danh sách “tiểu đội” gồm: Lê Hồng Tư, 27 tuổi, sinh viên, Lê Quang Vịnh, 26 tuổi, giáo sư; Lê Văn Thành, 20 tuổi, học sinh; Hạ Văn Hiền, 22 tuổi, học sinh; Đỗ Văn Sinh,20 tuổi, học sinh; Hồ Văn Ngoan, 20 tuổi học sinh;  Dương Văn Bình, 27 tuổi, thư ký hãng nước ngọt; Huỳnh Văn Chính, 27 tuổi, lính biệt động quân ngụy Sài Gòn; Nguyễn Văn Mẹo, 23 tuổi, lính biệt động quân ngụy Sài Gòn; Trần Bạch Vân, 28 tuổi, nhiếp ảnh viên; Nguyễn Văn Cho, 30 tuổi, tài xế; Nguyễn Tấn Phát, 18 tuổi, học sinh. Những người trẻ tuổi ấy đã  làm chấn động thế giới vì đã chủ động tấn công kẻ địch ngay trước vành móng ngựa…

*  *   *

Trên ghế công tố,  Lê Văn Khoa, ủy viên Chính phủ ngụy quyền, công tố viên hỏi Lê Văn Thành:

- Thôi, anh có nhận là đã ném bom vào xe của đại sứ Nolting không?

- Thôi không cần dài dòng. Chính ta đã ném trái thủ pháo đó.

- Tại sao anh lại muốn giết đại sứ Mỹ ?

-  Bởi hắn là tên xâm lược. Tôi noi gương liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã cài bom tại Sa Diện năm xưa … Lê Văn Khoa lại khua môi múa mép với Lê Hồng Tư:

- Chà, anh Lê Hồng Tư, mới nhìn qua tôi cũng biết anh thông minh lắm...… Chắc anh đủ can đảm để nói rõ sự thực về mấy người lính dù bị sát hại chứ?

- Tôi nói sự thật chớ nói dối thì ích gì đây? Nhưng sự thật là thế nào nhỉ?

-  Anh xác nhận đã ra lệnh cho tên Thành liệng lựu đạn vào xe tuần tiễu của lính dù.

- Rất tiếc, tôi không thể xác nhận điều đó !

- Tại sao?

- Bởi vì tôi không hề làm điều đó.Tôi không bao giờ ra lệnh cho cơ sở đánh vào  những chiếc xe tuần tiễu bình thường.

- Nếu thế thì tôi hỏi anh rằng anh có ra lệnh cho đánh vào xe của đại sứ Hoa Kỳ không ?

- Câu chuyện này hơi dài dòng… Khi các cố vấn quân sự Mỹ kéo vào miền Nam Việt Nam ngày càng nhiều, Ban lãnh đạo của chúng tôi quyết định tố cáo việc này trước công luận quốc tế; đồng thời cảnh cáo Chính phủ Mỹ rằng nhân dân miền Nam Việt Nam buộc lòng phải cầm vũ khí đứng lên.…

- Anh có biết là tại sao trái bom không nổ ?

- Anh Tám Lượng bắt buộc chúng tôi chỉ  sử dụng trái bom (trái mìn tự tạo - NM) đó mà thôi. Tôi nghĩ cấp trên của tôi đã có ý đồ rõ rệt!

- Ý đồ gì ?

- Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ muốn cảnh cáo chính phủ Mỹ. Giết chết đại sứ Nolting không phải khó, nhưng chúng tôi chỉ muốn cảnh cáo chính phủ Mỹ, họ không dám công khai ký vào văn bản hiệp định Geneve...

Trần Văn Thọ rung chuông ngắt lời anh Lê Hồng Tư :

- Đây không phải chỗ cho anh tuyên truyền cộng sản.

…...

Đến phiên Lê Quang Vịnh:

“Bỗng có ai đó nâng cằm tôi lên:

- Tôi không ngờ lại gặp cậu trong hoàn cảnh thế này, cậu còn nhớ tôi không?

Tôi im lặng gật đầu. Ông ta là Hồ Uy, thầy dạy Anh văn của tôi hồi đệ tam, đệ nhị trường Khải Định Huế, nay đã leo lên chức Phó chủ tịch Quốc hội của Ngô Đình Diệm. Ông ta tỏ vẻ thương xót:

- Cậu có biết là cậu sẽ lên máy chém không?

- Thưa thầy  biết chớ.

- Cậu có biết rằng tôi  có thể cứu sống được cậu không?

- Thưa thầy biết chớ.

-Bây giờ cậu có ân hận gì không?

- Ân hận lắm !

- Ân hận thế nào?

Ông ta có vẻ tự đắc hí hửng...…

- Ân hận vì bị chết quá sớm, chưa thực hiện được chí nguyện đuổi Mỹ, lật Diệm !... Ông Uy tái mặt trước câu trả lời của tôi.”

Đó là 3 đoạn trích trong hồi ức “Phiên tòa lịch sử” của Lê Quang Vịnh kể về việc đối đáp hiên ngang  giữa Lê Văn Thành, Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh với bọn quan tòa ngụy quyền Sài Gòn tại phiên tòa đặc biệt xét xử vụ án Hội Liên hiệp Sinh viên học sinh giải phóng miền Nam do tòa án quân sự đặc biệt Sài Gòn xử ngày 23/5/1962.

Đoạn hồi ức in trong cuốn  Từ trái tim người tù yêu nước của Lê Quang Vịnh, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành  năm 2006. Đến phiên người nào bị thẩm vấn, người đó đều đối đáp thông minh và khí phách làm cho kẻ xử án phải bối rối, run rợ. Những người  thanh niên  Sài Gòn ấy đã biến vành móng ngựa  tòa án binh địch thành nơi luận tội bọn xâm lược và bọn tay sai bán nước.

Tại phiên tòa này, bố Lê Hồng Tư và mẹ Lê Quang Vịnh cũng được những người quen ngầm báo, nên cũng có mặt. Không được gặp nhau, nhưng qua ánh mắt nhìn, người cha, người mẹ  ấy đã truyền được sự yêu thương nồng ấm, sự tin cậy đến những đứa con  yêu quý của mình. Họ đã khóc vì thương con, nhưng họ cũng đã chứng kiến khí phách hiên ngang, bất khuất của con mình trước kẻ thù.

Đến 12 giờ khuya hôm ấy, phiên tòa mới kết thúc. Chúng tuyên án tử hình 4 người là Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Thành và Huỳnh Văn Chính, 3 án chung thân và  5 án “tù ở” (tức tù giam) từ 5 – 15 năm.

Những người tù bị còng thành từng cặp, tay người này còng với tay người khác. Bản án vừa tuyên xong, anh Lê Hồng Tư giơ cao cánh tay phải không bị còng thét lên:” Đả đảo luật phát xít 10/59 của ngụy quyền miền Nam!”. Cả “tiểu đội tù” đồng thanh hô theo: ”Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!…”…

Khi đoàn tù bị hiến binh kéo  ra xe, tiểu đội tù bỗng bùng lên tiếng hát hào hùng: ”Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng. Vùng lên xông  pha vượt qua bão bùng. Thề cứu lấy nước nhà. Thề hy sinh đến cùng. Cầm gươm ôm súng xông tới…”. Cả “tiểu đội” hát say sưa, sang sảng, mặc cho bọn hiến binh xông vào đấm đá túi bụi. Tiếng hát như nâng bổng họ lên cao tận trời sao Sài Gòn đêm hè thăm thẳm…

Bọn hiến binh dồn các anh lên xe tù, đóng  sầm cửa lại. Tiếng hát vẫn vang lên hùng hồn:Vận nước đã đến rồi. Bình minh chiếu khắp nơi. Tiếng hát Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước… vọng vang qua các phố trong đêm Sài Gòn làm cho nhiều người thức giấc, nhiều ô cửa sổ đã bật mở… Tiếng hát Giải phóng miền Nam… như là một ngọn gió mát lan truyền…

Những cái Tết của tử tù

Vì gần Tết Đinh Hợi, tôi hỏi chuyện anh Lê Quang Vịnh về những cái Tết trong Chuồng Cọp mà anh từng trải qua.  Anh Vịnh kể, đã là tử tù, tức tù chính trị bị còng chân ở Chuồng Cọp, Hầm Đá thì tuyệt đối không có Tết đúng nghĩa của nó. Chỉ có một thay đổi nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với người tù là đêm Giao thừa địch cho mở còng, sáng ra chúng lại khoá còng lại.

Có cái Tết, khi được tháo còng, tử tù Ba Thưa (nguyên Tỉnh ủy viên Tây Ninh) đã nhặt đâu đó được cái móc quần (móc sắt thay cho khuy cài cạp quần tây). Anh liền mài vào tường cho sắc. Sau đó anh vỗ tay  gọi bọn lính cai ngục kéo đến phía trên.

Chuyện người tử tù có một không hai (kỳ 2) ảnh 2
Tái hiện hình ảnh người tử tù Côn Đảo

Anh hô khẩu hiệu đả đảo Mỹ ngụy, chửi bới chế độ tù hà khắc. Rồi anh phanh bụng lấy cái móc quần đó rạch bụng mình, lấy ngón tay chọc máu mình viết lên tường câu: ”Quyết tử (Cho Tổ Quốc quyết sinh - anh Vịnh  đoán thế) để thể hiện khí tiết. Nhưng mới viết xong chữ “Quyết tử” thì anh gục ngã.

Người tù nằm một mình trong bốn bức tường đá lạnh, chỉ biết Tết qua âm thanh, mùi vị bên ngoài vọng vào: Tiệc đâu gió chướng thơm mùi thịt/ Vuốt bụng cồn cào muốn ngủ quên (LQV- Noel Hầm Cọp).

Khi giao thừa đến, nghe tiếng pháo  bên ngoài vọng vào, người tử tù mặc vào chiếc áo lành nhất của mình, tức là áo rách, quần tưa đã được vá lại từ trước, đứng dậy nghiêm trang, tưởng tượng mình đang chào cờ Tổ quốc. Không biết đâu là đông tây nam bắc, vẫn như đang hướng về đất liền, nơi cố hương, hướng về miền Bắc, thầm hát Quốc ca.

Cũng có Giao thừa, bốc quá, hát to: Nước mắt rưng rưng tràn má hóp/ Quốc ca ta hát vọng ra ngoài (thơ LQV). Thế là bọn lính canh Chuồng lấy sào thọc tới tấp từ trên song sắt xuống. Nếu còn hát tiếp, nó rắc vôi bột xuống trắng cả tóc tai. Thế mà anh em tù Chuồng Cọp, Hầm Đá cứ Tết đến, hay ngày Quốc khánh 2/9 là đứng nghiêm trang “chào cờ tưởng tượng”, rồi hát Quốc ca, Lãnh tụ ca.

Có lần anh em tù Hầm Đá tổ chức ăn Tết ầm ĩ quá, bọn địch dùng chày vồ mở cửa chuồng đánh tới tấp, vẫn không chịu im, chúng dùng thủ pháo chứa hơi ngạt ném vào chuồng, làm mọi người ngất xỉu. Có đêm Giao thừa tại Chuồng Cọp Trại 7, sư Hành Tuệ, một nhà sư đấu tranh cho hoà bình thống nhất đất nước, bị đày ra Côn Đảo, bị giam ở cạnh chuồng anh Vịnh.

Không biết nhà sư hỏi ai mà biết người bên kia bức tường là “giáo sư Lê Quang Vịnh”. Đang đêm nhà sư lấy ghét bẩn trên thân thể mình vê thành hòn đất bằng lóng tay, ném sang chuồng của anh Vịnh, rồi hô to: ”Năm mới, chào giáo sư”.

Anh Vịnh hỏi người đưa cơm, biết chuồng bên kia là sư Hành Tuệ, nên hôm sau cũng đáp lại “Chúc Tết Sư thầy”. Bọn lính canh rầm rập chạy tới thì tất cả đã im ắng. Đó là những lời chúc năm mới hiếm hoi trong Chuồng Cọp Côn Đảo. Năm 1972, sư Hành Tuệ do không chịu hô khẩu hiệu “Đả đảo cộng sản Hồ Chí Minh”, đã bị bọn cai tù đánh chết trong Chuồng Cọp Mỹ.

“Chúa Đảo” quy định tiêu chuẩn cho tử tù ăn 3 tháng được 100 gam thịt, một ngày 450 gam cơm (hai dĩa). Nhưng ngày Tết chúng cho thêm trên đĩa cơm mang vào Chuồng một hai miếng thịt. Có thể gọi đó là “Khẩu phần Tết”.

Anh em tù đi lao động khổ sai thì Tết nhất có khá hơn. Khi đi làm ở các “Sở” (tổ chức lao động khổ sai theo nghề, như sở vôi, sở đá…) họ kiếm được con cá dưới ruộng, bông hoa rừng, làm cho cái Tết cũng tươi hơn chút ít.

Anh Lê Quang Vịnh cho rằng, trong 8 năm biệt giam trong Chuồng Cọp, Hầm Đá và 4 năm chung thân khổ sai, có hai cái Tết ấn tượng nhất đối với anh. Đó là Tết Mậu Thân 1968 và Tết năm 1971.

Ngày  mùng 2 Tết Mậu Thân, anh Vịnh đang ở Chuồng Cọp II, bỗng nhiên địch mở cửa, tháo còng, lôi ra khỏi chuồng. Sau đó chúng đưa anh cùng các tử tù Lê Hồng Tư, Lê Minh Châu, Trương Thanh Danh lên tàu thủy Mỹ chở về Sài Gòn. Tuy vẫn bị còng chân, nhưng 4 người tù được hít thở khí Xuân đất trời. Khi tàu vô tới Tân Cảng Sài Gòn, các anh thấy Tân cảng bị cháy đen, nhiều chỗ còn đang bốc khói.

Trên đường về Tổng Nha cảnh sát  ngụy, nhiều khu quân sự của địch bị phá nát. Khu căn cứ Hàng Xanh gần như  sụp đổ hoàn toàn. Dinh Độc Lập cũng bị nhiều vết tích của một cuộc tấn công. Đường phố Sài Gòn mọc lên nhiều công sự bằng bao cát.v.v...

Như vậy các anh đã được chứng kiến tận mắt một trận đánh rất lớn của  quân ta vào đầu não Sài Gòn. Nghe nói chúng đưa các anh về để trao trả đổi 3 tên Mỹ bị bắt trong Mậu Thân, nhưng 3 tên Mỹ đó đã được Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trao cho Hội Hồng Thập tự quốc tế để trả cho phía Mỹ.

Chúng đánh đập 9 tháng trời, bắt chào cờ ba que, hô khẩu hiệu đả đảo cộng sản…, các anh không chịu, rồi  chúng chở ra lại Côn Đảo. Tuy thân thể bị đau đớn, nhưng  vô tình chúng đã cho  các anh “ăn” một cái Tết tinh thần no nê, là chứng kiến cuộc Tổng tiến công Mậu Thân của quân và dân ta.

Đó là một liều thuốc “thập toàn đại bổ” giúp người tù có thêm sức mạnh và ý chí để vượt qua sự đánh đập giam cầm của địch trong Chuồng Cọp những ngày sau đó. Tết đó, anh đã làm bài thơ “Trở lại Sài Gòn”:

Trở lại Sài Gòn thấy xác xơ

Dân thưa lính chật chợ đông hờ

Thép gai bao cát giăng trùng trập

Dinh tướng lầu quan đổ ngẩn ngơ

Bừa bãi phái bom cày nát phố

Nơi nơi cách mạng phất cao cờ

Đô thành cháy nám, người sao nhỉ?

Kìa mấy cô me Mỹ vẩn vơ(!).

Lê Quang Vịnh được ăn một cái Tết rất xúc động ở trong Hầm Đá. Đó cũng  là Tết Hợi, hình như Tân Hợi, 1971. Năm 1970, toàn bộ tù Côn Đảo “đồng khởi”. Hàng ngàn tù nhân bãi công, tuyệt thực chống đánh đập, chống bắt chào cờ. Hàng chục người tự rạch bụng chết trước mặt kẻ địch như anh Ba Thưa để tỏ rõ khí tiết.

Nhà báo Mỹ Don Luce đã tìm cách lén ra Côn Đảo, đóng vai cố vấn Mỹ đã đột nhập vào Chuồng Cọp, Hầm Đá chụp ảnh, sau đó viết bài đăng trên báo Mỹ, làm cho dư luận quốc tế lên án gay gắt chế độ nhà tù Mỹ ở Côn Đảo.  Bọn địch bèn chia riêng tù chính trị (đa phần là cộng sản) và tù thường phạm (có nhiều kẻ xấu). Nhờ đó anh em dễ bề hoạt động hơn.

Có trại anh em cấm cố tổ chức “Đài phát thanh Giải phóng”. Bụm tay làm loa, cuộn tấm nệm nằm làm loa chĩa lên trời hô lớn: ”Mỹ thua Mỹ về Mỹ. Quân đội thua quân đội về đâu ? Xin các ông nghĩ lại!”. Họ “phát thanh” liên tục, đêm nói, ngày nói, nói tháng này qua tháng khác, làm cho bọn nguỵ quân cai tù cũng nao núng, chùn tay đàn áp...

Tết đó, Lê Quang Vịnh ở hầm số 14 trong Hầm Đá trại 3 gồm một dãy 14 hầm. Các hầm từ số 1,2,3… đến số 13 là hầm nhốt các tù binh là sĩ quan Quân giải phóng bị bắt giam ở Phú Quốc mới chuyển ra Côn Đảo, gồm 27 người. Mấy anh bộ đội giải phóng tổ chức Tết Hợi rất long trọng. Các anh lấy lá tết thành 2 câu đối Tết đặt ngày trước cửa dãy hầm: Ngoài ngục đào mai khoe sắc thắm/Trong tù lý tưởng chói lòng sơn.

Phải những người được học hành tử tế, hiểu biết  văn chương mới làm câu đối chỉnh như thế được. Vì ở Trại 3, tù được ra tắm nắng, các anh kiếm hoa cỏ bó lại dựng bên tường làm hoa Tết.

Đêm Giao thừa cả gian 14 Hầm đá tổ chức văn nghệ, thay nhau hát các bài hát cách mạng, rồi ngâm thơ. Có anh bộ đội hát to bài hát “Người con quang vinh” viết về Lê Quang Vịnh của Nguyễn Tài Tuệ, cho anh Vịnh nghe. Nhờ đó, sau gần 9 năm, anh Vịnh mới biết có bài hát viết về phiên toà xử án mình. Một anh tù binh ứng khẩu thành thơ tặng anh Vịnh:

Lê Quang Vịnh quang vinh trong sáng

Gửi lại anh muôn vạn niềm tin

Bồi hồi hai bảy trái tim

Hoà cùng một nhịp viết nên thư này

Hẹn gặp anh trong ngày toàn thắng!

Sau đó các anh chép vào lá bàng ném sang. Anh Vịnh  lau nước mắt, nói với tôi: “Đêm Giao thừa đó tôi đã khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn trào, nóng hổi tình đồng chí”.

Sau này anh Vịnh có gặp lại một vài người trong 27 tù binh Hầm Đá trại 3 ấy. Một anh trở thành thường vụ tỉnh ủy Đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo; một anh tên là Phạm Chí Công, khi ở tù Côn Đảo là Đại uý Quân giải phóng, sau này phục viên về quê ở thành phố Vinh.

Anh ra Hà Nội tìm thăm bạn tù Lê Quang Vịnh. Hai anh em ôm nhau rưng rưng. Cuộc đời con người thật lạ. Thịt xương ai cũng là người, bao nhiêu năm bị đày đọa tưởng chừng không sống nổi. Thế mà giờ gặp nhau lại vui như Tết…

Kể cho tôi nghe xong những ký ức về Tết ở Chuồng Cọp, Hầm Đá Côn Đảo, cựu tử tù Lê Quang Vịnh bỗng trầm ngâm, rưng rưng nước mắt: ”Đã 32 cái Tết trên đất nước hoà bình, bên vợ con sum vầy làm cỗ đón Xuân, đi chơi chúc Tết bà con bè bạn…

Nhưng không có cái Tết nào tôi không cồn cào nhớ đến những người bạn tù của mình còn sống hay đã nằm xuống ở nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo. Nhớ lắm, nhớ lắm… Ngô Minh ơi”. Nói rồi anh  rút khăn mùi xoa chấm nước mắt.

(Còn tiếp)

Ngô Minh

MỚI - NÓNG