Đại tướng Võ Nguyên Giáp:

Học thuyết quân sự VN thời đại Hồ Chí Minh có thể đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược

Học thuyết quân sự VN thời đại Hồ Chí Minh có thể đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược
Để tham gia Hội thảo khoa học “Đại thắng mùa Xuân năm 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” (TP Hồ Chí Minh, ngày 14-15/4/2005), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết bài “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam”.

(…)

Một câu hỏi lớn lâu nay không ít người đã đặt ra: Vì đâu nhân Việt Nam, từ không một tấc sắt trong tay, vùng lên bẻ gẫy gông xiềng nô lệ, lại đánh thắng “hai đế quốc to” trong một cuộc chiến tranh không cân sức, giành lại non sông đất nước, tiến lên giải phóng xã hội, giải phóng con người?

Sẽ không tìm được câu trả lời cho câu hỏi này nếu không nhìn sâu vào chiều dày lịch sử hàng nghìn năm, vào nền văn hóa dân tộc, vào truyền thống và di sản quân sự của tổ tiên, vào đường lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thật vậy, một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử thế giới là các bộ tộc người Việt cổ sinh sống trên mảnh đất này đã sớm có một triết lý sống, hình thành và phát triển một nền văn hóa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, cố kết với nhau, tương thân tương ái, vừa dũng cảm vừa thông minh. Chính nhờ sức mạnh khôn lường của nền văn hóa ấy mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta không hề bị đồng hóa và cuối cùng đã vùng lên giành lại nền độc lập.

Cho đến khi vị tổ Trung hưng đầu tiên là Anh dùng dân tộc Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, thì kỷ nguyên một nghìn năm  độc lập tự chủ đã được mở ra, chỉ gián đoạn bằng 20 năm đô hộ của quân Minh. Suốt trong một nghìn năm ấy, dân tộc ta dưới triều đại của các vị vua yêu nước đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần, từ Tống, Nguyên đến Minh, Thanh.

Đặc biệt trong thế kỷ XIII, dân tộc ta đã đánh thắng quân Mông Nguyên là đội quân xâm lược mạnh nhất thời bấy giờ đã từng chinh phục nhiều dân tộc từ á sang Âu, đã chiếm lĩnh cả nước Trung Hoa, vậy mà ba lần xâm lược Đại Việt là ba lần thất bại. “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Hễ kẻ thù đụng đến nước ta thì “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc.

Từ Hịch tướng sĩ và Di chúc Canh Tý đến Bình Ngô đại cáo, một học thuyết quân sự Việt Nam đã hình thành và phát triển: “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, “trăm họ là binh”, “lấy đoản binh chống trường trận” “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”. Học thuyết ấy đã biết vận dụng phép biện chứng đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu, cuối cùng đạt tới nguyện vọng  sâu xa là giành lại và giữ vững chủ quyền dân tộc với những tư tưởng vượt thời đại: “tập họp bốn phương manh lệ” “dập tắt muôn đời chiến tranh”, “đem lại thái bình muôn thuở”.

(…)

Tư tưởng cơ bản của học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là trên cơ sở phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng, không có gì quý hơn độc lập, tự do, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc. Trong chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Bác Hồ viết: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.

Trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Bất kỳ đàn ông, đàn bàn, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Người lại khẳng định: “Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân. 31 triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc, bất kỳ già trẻ gái trai phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ cứu nước”. Người nêu cao chính sách đại đoàn kết dân tộc, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”.

Đi đôi với tư tưởng “toàn dân đánh giặc” học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển lên một đỉnh cao mới nghệ thuật đánh giặc truyền thống của dân tộc lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh, giải quyết thành công trong điều kiện của thời đại mới một vấn đề hầu như một ngịch lý là “nước nhỏ đã đánh thắng đế quốc to là Pháp và Mỹ”.

Bác Hồ nói: “Nay tuy châu chấu đấu voi

Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”.

Bài toán “châu chấu đá voi” chống kẻ xâm lược có nền công nghiệp khoa học kỹ thuật phát triển, có trang bị rất hiện đại, có tiềm lực quân sự kinh tế rất mạnh như đế quốc Mỹ đặt ra cho dân tộc ta phải sáng tạo ra hàng loạt cách đánh hết sức thông minh, đem ý chí quyết chiến quyết thắng và trí tuệ sáng tạo của ta mà chiến thắng mọi chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật hiện đại của quân xâm lược.

Học thuyết quân sự Việt Nam luôn nắm vững mục tiêu cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, phân tích tình hình thực tiễn, tìm ra quy luật và hành động theo quy luật, đánh thắng mọi kẻ địch hung bạo. Học thuyết ấy luôn theo dõi diễn biến mau lẹ và so sánh lực lượng giữa địch và ta trên chiến trường, tìm ra và tạo thời cơ có lợi nhất cho ta, tạo thế mạnh của ta, khoét sâu thế yếu của địch, tập trung lực lượng tiêu diệt địch. Khi tình hình thay đổi thì kịp thời thay đổi quyết sách về chiến lược, chiến thuật, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ, giành được thắng lợi lớn, thường là trong những điều kiện khó khăn nhất.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, học thuyết quân sự Việt Nam đã phát triển lên một đỉnh cao mới đưa đến nhiều thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, đã có lúc, do không nắm vững đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, không đi sát thực tiễn và không làm theo quy luật, chủ quan, duy ý chí, nên đã hạn chế không ít thắng lợi và chịu nhiều tổn thất.

Đã có một thời gian, mối quan hệ giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy là đề tài tranh luận kéo dài trong cán bộ quân sự ở chiến trường. Một số đồng chí nhận thức không đúng, chỉ chú trọng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, chiến tranh du kích, chỉ chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích, coi nhẹ xây dựng bộ đội chủ lực.

Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam cũng thường cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Đó là những nhận thức hoàn toàn sai. Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và cũng chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích.  Chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh địch bằng mọi cách, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực thành những binh đoàn mạnh từ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đến quân đoàn, trở thành những “quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.

Lại như do không nắm vững quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh nên đã có chủ trương kết hợp với tổng công kích, tiến hành tổng khởi nghĩa trong chiến tranh ngay khi trên chiến trường còn hơn nửa triệu quân Mỹ và hơn một triệu quân ngụy và quân các nước phụ thuộc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân bất ngờ, đồng loạt đánh vào các đô thị và hầu hết các căn cứ hậu cần lớn của địch giành thắng lợi vang dội, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Lẽ ra phải chuyển hướng hoạt động về nông thôn, nhưng chúng ta lại chủ trương tiếp tục tiến công vào các đô thị nhằm dấy lên tổng khởi nghĩa, cuối cùng tổng khởi nghĩa vẫn không diễn ra, cách mạng phải chịu nhiều tổn thất.

Một ví dụ khác do làm sai quy luật nên phải trả giá bằng xương máu. Cách mạng là tiến công. Tư tưởng chiến lược của chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là tư tưởng tiến công. Còn hình thức tác chiến thì có tác chiến tiến công, tác chiến phòng ngự kể cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Tuy nhiên, do nhận thức không đúng nên trong một thời gian dài, một số cán bộ cho rằng trong chiến tranh cách mạng chỉ có tiến công, phủ nhận phòng ngự, thậm chí coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy mà trong một số trận đánh, bộ đội bị thương vong.

Trong những năm gần đây, Mỹ và một số cường quốc phát triển vũ khí và trang bị hiện đại. Cuộc chạy đưa vũ trang vẫn đang tiếp tục. Đi đôi với sự xuất hiện của một chiến lược mới, đặt “nhân quyền” lên trên “chủ quyền”, một số thế lực hiếu chiến tự cho phép xâm lược một quốc gia độc lập và có chủ quyền, bất chấp luật pháp quốc tế. Sau chiến tranh vùng Vịnh là cuộc chiến tranh xâm lược Kôxôvô rồi lại diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược Irắc và còn đe dọa gây ra những cuộc chiến tranh xâm lược mới. Một điều mới đặt ra: Trong điều kiện chiến tranh xâm lược với vũ khí công nghệ cao, thì học thuyết quân sự Việt Nam còn có giá trị hay không?

Chúng ta không bao giờ chủ quan khinh địch, luôn coi trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật quân sự, phát triển học thuyết quân sự Việt Nam lên trình độ mới đặc biệt trong tình hình một số cường quốc đang thực hiện một “cuộc cách mạng trong lĩnh vực quân sự”. Và chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: Học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh hoàn toàn có khả năng giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược dù có hiện đại đến đâu và bất kể từ đâu tới.

Nền văn hóa Việt Nam, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, học thuyết quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo, không ngừng phát triển là sức mạnh của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.(…).

MỚI - NÓNG