Đến cuối tháng 9 tới, ngân hàng nào không đáp ứng việc tăng vốn phải có phương án giải quyết (sáp nhập hoặc giải thể), chứ không có chuyện gia hạn. Đồng thời, NHNN sẽ kiểm tra, giám sát việc tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng là tăng vốn thật chứ không phải vay mượn giữa các cổ đông ngân hàng lẫn nhau.
Đi kèm "tối hậu thư" này, NHNN cũng định hướng các NHTM hoạt động tại Việt Nam phải đảm bảo mức vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng vào cuối năm 2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm 2015, mức tăng tương đương 67% và 233% so với mức tối thiểu 3.000 tỷ đồng.
Theo quan điểm của cơ quan quản lý, yêu cầu tăng vốn là để sàng lọc những ngân hàng không đủ năng lực, nhằm chặn trước hệ lụy hoạt động tín dụng kém, tăng nợ xấu, gây ảnh hưởng đến thanh khoản của cả hệ thống và nền kinh tế.
Tuy nhiên, tăng đến bao nhiêu và vào thời điểm nào để tránh lợi bất cập hại, lại là chuyện được nhiều chuyên gia bàn. Tổng giám đốc một NHTM cổ phần hiện đã có vốn điều lệ trên 3.000 tỷ đồng phân tích: "Muốn tăng mạnh vốn huy động thì buộc ngân hàng phải tăng mạnh việc cho vay, để số vốn vừa huy động được đem lại lợi nhuận hấp dẫn đối với những cổ đông đã bỏ tiền đầu tư. Như vậy, nếu vốn huy động tăng cao mà ngân hàng không biết đầu tư vào đâu, sinh ra làm bậy thì càng gây nguy hiểm cho hệ thống".
Một vụ trưởng thuộc UBCKNN cũng bày tỏ sự lo lắng: "Lộ trình tăng như dự kiến là quá nhanh, nhất là trong bối cảnh thị trường chứng khoán lại đang sụt sùi thì càng bất lợi. Việc tăng gấp sẽ khiến cổ phiếu các ngân hàng trên sàn bị pha loãng, thị giá giảm mạnh, giới đầu tư không mặn mà...".
Theo các chuyên gia, có hai kiểu hệ thống ngân hàng trên thế giới. Thứ nhất là thị trường nằm trong tay một số ngân hàng lớn với tính ưu việt là tạo ra sự ổn định cao nhưng dễ độc quyền. Thứ hai, có nhiều ngân hàng nhỏ nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, nhưng khả năng ổn định tiền tệ quốc gia khó khăn hơn.
Việc NHNN đẩy nhanh lộ trình tăng vốn, thực ra chính là để chuẩn bị cho bài toán quy hoạch hệ thống ngân hàng 5-10 năm nữa. Tuy nhiên, tính thế nào để phù hợp thực tế, năng lực tài chính từng ngân hàng và phù hợp với thị trường vốn quy mô còn nhỏ bé của Việt Nam, cũng như đảm bảo chất lượng hoạt động thực sự an toàn cho hệ thống ngân hàng, mới là ưu tiên số 1. Bởi thế, việc tăng vốn cấp tập, không khéo lợi bất cập hại.