Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, Tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Năm 1906 ông lên Sài Gòn học việc và làm thợ. Năm 1912 ông tổ chức cuộc bãi khóa của học sinh trường Cơ khí Á Châu (còn gọi là trường Bá Nghệ - nay là trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng), phong trào này đã được công nhân Ba Son hưởng ứng. Sau đó, ông bị động viên sang Pháp làm lính thợ phục vụ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm France, xưởng Arsenal, quân cảng Toulon và tham gia phản chiến trên chiến hạm France tại Biển Đen năm 1919.
Năm 1920 Tôn Đức Thắng bị trục xuất khỏi nước Pháp, về Sài Gòn, thành lập Công hội bí mật, lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son, tháng 8 năm 1925. Cuối năm 1929 ông bị thực dân Pháp bắt trong vụ án Barbier, bị kết án 20 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở về đất liền tham gia Ủy Ban kháng chiến miền Nam và năm 1946 ông là Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam.
Năm 1955 ông được bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới, Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam. Năm 1960 là Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1969 ông được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước hòa bình thống nhất, năm 1976 ông được bầu là Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Tôn Đức Thắng chính là Chủ tích nước đầu tiên của Việt Nam thống nhất sau nhiều năm bị chia cắt vì chiến tranh.
Năm 1980 Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời vào ngày 30/3 tại Hà Nội, an táng tại nghĩa trang Mai Dịch. Cuộc đời của ông gắn với phong trào công nhân, ông rất yêu lao động và tự tay mình làm những công việc trong gia đình.