Bộ Chính trị đã thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên Phủ vào thời gian nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp và nhận định, đánh Điện Biên Phủ là một trận công kiên lớn nhất của quân đội ta từ trước tới nay và có ý nghĩa quân sự, chính trị và ngoại giao rất quan trọng. Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Ngày 14/1/1954, tại hang Thẩm Púa, BCH Mặt trận triệu tập Hội nghị cán bộ chiến dịch để phổ biến kế hoạch. Hội nghị nhất trí tiến công tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh". Tuy nhiên, trước ngày mở màn chiến dịch theo kế hoạch (26-1-1954), Tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ không còn ở trạng thái phòng ngự lâm thời nữa. Nếu đánh theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh" thì khó mà bảo đảm "chắc thắng". Chính vì vậy mà sau khi bàn bạc, trao đổi cùng Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề xuất Ðảng ủy, BCH chiến dịch hoãn nổ súng, thay đổi phương châm, từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc".
Chiến dịch Điện Biên Phủ vào ngày tháng năm nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Trận Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương giữa Quân đội Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp (gồm lực lượng viễn trinh Pháp, lê dương Pháp, phụ lực quân bản xứ và Quân đội Việt Nam). Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài bao nhiêu ngày?
Giải thích Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ lần thứ nhất diễn ra tại đâu?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Chiến dịch Điện Biên Phủ lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).
Tướng Navarre đưa tổng số binh lực lên Điện Biên Phủ lúc cao nhất là 16.200 quân mục đích là nhằm biến Điện Biên Phủ thành
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Cuối năm 1953, Pháp sa lầy vào trên chiến trường Đông Dương. Để tìm giải pháp đàm phán ưu thế, Henri Navarre được bổ nhiệm là Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, và xây dựng nơi đây thành pháo đài bất khả xâm phạm. Tháng 11/1953, Nava cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, xây dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, xương sống của “Kế hoạch Nava”. Lực lượng của địch ở đây lên tới 16.000 quân, bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 03 tiểu đoàn pháo binh, 01 tiểu đoàn công binh, 01 đại đội xe tăng, 01 đại đội xe vận tải, 01 phi đội máy bay thường trực cùng nhiều vũ khí hiện đại của Pháp và Mỹ nhằm làm bàn đạp chiếm lại Tây Bắc, khống chế chiến trường Lào, đồng thời giữ quân chủ lực ta ở Việt Bắc để quân Pháp rảnh tay hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ và đánh chiếm Liên khu 5. Mặc dù có tới 50 vạn quân, bao gồm cả quân ngụy, nhưng Nava không thể đối phó với cuộc tiến công của quân ta trên khắp các chiến trường. Hy vọng duy nhất của Nava là ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một cứ điểm quân sự mà cùng với các Bộ trưởng, tướng lĩnh Pháp và nhiều tướng lĩnh Mỹ đã nhiều lần tới kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, kể cả Phó Tổng thống Mỹ Níchxơn, đều hết lời ca ngợi và tuyên truyền đây là “một cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm, không thể công phá”.
Từ năm 1945 đến 1954, thực dân Pháp cử sang Việt Nam mấy tướng chỉ huy quân đội Pháp?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Từ năm 1945 đến 1954, thực dân Pháp cử sang Việt Nam 7 tướng chỉ huy quân đội Pháp. Họ là tướng 4 sao Philippe Leclerc, tướng 4 sao Etienne Valluy, tướng 4 sao C.Blaijat, tướng 4 sao M.Corgente, tướng 5 sao Delattre De Tassigny, tướng 4 sao Raul Salan, tướng 4 sao Henri Navarre.
Theo phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh”, lúc đầu, ta định đánh Điện Biên Phủ trong mấy ngày?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Trước khí thế, quyết tâm cao của chiến sĩ ngoài mặt trận và sự thống nhất của các đồng chí trong Đảng ủy mặt trận cùng các cố vấn, ngày 14/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho triệu tập hội nghị cán bộ, phổ biến mệnh lệnh chiến đấu, dự kiến trận đánh diễn ra trong 2 ngày 3 đêm, giờ nổ súng dự định là 17h ngày 20/1/1954. Phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” coi như được chốt lại là chủ trương thống nhất của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch và các cố vấn Trung Quốc.
Ai là người trực tiếp chỉ huy cuộc vây bắt tướng De Castries ngày 7/5/1954?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Với cương vị đại đội trưởng Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, ngày 7/5/1954, Tạ Quốc Luật (xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, Thái Bình) dẫn đầu một tổ xung kích gồm 5 người bắt sống tướng De Castre và bộ tham mưu của địch tại cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tả lại: “Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lập tức dẫn đại đội 360 (tiểu đoàn 130, trung đoàn 209) luồn dưới làn đạn với những khẩu trọng liên bốn nòng, băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân địch hầu như không chống cự, Tạ Quốc Luật cho bộ đội rời giao thông hào đầy ắp quân địch, nhảy lên mặt đất, dùng một lính ngụy dẫn theo đường tắt tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của De Castries". "Các đài quan sát báo cáo về: Quân ta từ ba phía đang đánh vào khu trung tâm, 312 từ phía đông tiến qua cầu Mường Thanh, 308 từ phía tây mở đường qua sân bay, và từ phía tây nam mở đường vào Lili, hướng về sở chỉ huy của De Castries. Quân địch chỉ chống cự lẻ tẻ". "Nhiều toán địch ra hàng. Những đốm cờ trắng xuất hiện ở Mường Thanh mỗi lúc một nhiễu. Anh Hoàng Văn Thái luôn luôn nhắc các đơn vị: "Bao vây chặt, không để một tên nào chạy thoát". 5 giờ 30 chiều, 312 báo cáo lên: "Toàn bộ quân địch tại khu. Trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng De Castries ". Christian de Castries (1902) xuất thân gia đình danh giá ở Pháp, theo binh nghiệp. Năm 1953, Castries được giao nhiệm vụ phòng thủ ở Điện Biên Phủ, với chức vụ chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm. Ngày 7/5/1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bại quân Pháp và đồng minh tại tập đoàn cứ điểm, kết thúc Chiến tranh Đông Dương. De Castries bị bắt giam trong 4 tháng. Ngày 3/9/1954, De Castries được trao trả cho Pháp theo hiệp định Gevena. Năm 1984, De Castries muốn quay lại Việt Nam - nơi gắn bó một thời binh nghiệp, nhưng không thành. Năm 1991, De Castries qua đời tại Pháp.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ chúng ta bắn rơi được bao nhiêu máy bay các loại?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn; thu 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu sung, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.
Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán công nhận chủ quyền của Việt Nam thông qua hiệp định nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Ngày 26/4/1954, hội nghị Genève chính thức được khai mạc tại Thụy Sĩ Ngày 10/3/1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp thuận tham dự Hội nghị theo đề nghị của Pháp. Ban đầu, lập trường của Pháp khá cứng rắn. Ngày 8/5, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải phải ngồi vào bàn đàm phán công nhận chủ quyền của Việt Nam. 21/7/1954, Hiệp định Giơnever được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.
Người nữ tù binh duy nhất ở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là ai?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Chiều 7/5/1954, quân Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ. Hơn 10 nghìn tù binh bị ta bắt sống, trong đó duy nhất có một nữ tù binh, đó là Geneviève de Gallard - cô nữ y tá xinh đẹp chừng hơn 30 tuổi, nguyên là tiếp viên hàng không đến từ Pari, với cái tên “nữ hoàng của mặt trận”. Vào ngày 31/3/1954 tại Trạm phẫu thuật số 29 của Bệnh viện dã chiến-Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, khi thiếu tá quân y Paul Grauwin chuẩnbị bắt tay vào kíp mổ cho những người lính Angiêri và Ma Rốc bị thương ở các cứ điểm dãy đồi phía đông chuyển về; ông bỗng nghe thấy tiếng nức nở của Geneviève de Gallard đang đứng tựa lưng vào vách hầm mà khóc. Cô G.Gallard bị kẹt lại cùng với tổ lái ở mặt trận vì máy bay bị trúng đạn và hỏng nặng. Năm 1953 cô được đưa đến Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ tải thương. Sau những chuyến bay chở thương binh về Hà Nội cô vẫn còn đủ dũng cảm để trở lại “chảo lửa Điện Biên Phủ " và bây giờ cô chỉ còn cách ở lại giúp bác sỹ trong các trạm phẫu đầy ắp thương binh và người hấp hối. Trở thành y tá mặt trận G.Gallard đã phải chạy khắp chiến trường đầy bom đạn và sự chết chóc để thu lượm, sơ cứu và vận chuyển thương binh về các trạm phẫu thuật dã chiến. Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 21/5/1954 tất cả thương binh nặng và cô nữ y tá được lên máy bay rời Điện Biên Phủ về Hà Nội trong niềm vui sướng vô bờ. Trước đó cô đã gửi tiếp thư cám ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghĩa cử quân đội Việt Nam đã đối xử tử tế, chăm sóc chu đáo thích đáng đối với tù binh, thương binh Pháp. 17h30 phút chiều ngày mùng 7/5/1954, trước sức tấn công như vũ bão quân đội Việt Nam đã ồ ạt tấn công vào trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ta đã bắt sống tướng Đờ Cát cùng toàn bộ bộ tham mưu và nhiều binh lính địch trong đó có bác sỹ trưởng P.Grauwin và cô G.Gallard.
Khẩu pháo bắn những loạt đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ là loại nào sau đây?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Theo hồ sơ hiện vật được Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam xác minh, đây là pháo mặt đất 105mm, có 2 lá chắn kép kiểu M2A1 do Mỹ sản xuất, viện trợ cho thực dân Pháp sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Pháo 105mm bắn những loạt đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Khẩu pháo do Mỹ sản xuất viện trợ cho Pháp. Ta thu được trong trận đánh đồn Nghĩa Lộ, chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Đây là một trong những khẩu pháo đã vinh dự được bộ đội ta chọn làm khẩu pháo bắn mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 13/3/1954. Tại khu vực tiền sảnh của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam khẩu pháo này được trưng bày trang trọng, thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan bảo tàng.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
Điểm