Biên giới Trung -Ấn xung đột kéo dài khó giải quyết: Những toan tính bất đối xứng

Biên giới Trung Quốc, Ấn Độ là vùng núi cao, khí hậu khắc nghiệt
Biên giới Trung Quốc, Ấn Độ là vùng núi cao, khí hậu khắc nghiệt
TPO - Biên giới tranh chấp giữa Trung Quốc và Ấn Độ được chia làm ba phần: phía đông (90.000 km2 ở Arunachal), vùng giữa (gần Nepal) và phía tây (33.000 km2 ở Aksai Chin / Ladakh). Những bất đồng kéo dài về biên giới đã gây khó khăn cho mối quan hệ song phương kể từ khi thành lập Cộng hòa Ấn Độ năm 1947 và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949. Những khác biệt như vậy đã dẫn đến cuộc chiến tranh Trung -Ấn năm 1962 ở cả phía đông và phía tây, sau đó là nhiều cuộc đối đầu kể từ đó.

Theo Tôn Vân, giám đốc chương trình Trung Quốc thuộc Trung tâm Stimson, một tổ chức nghiên cứu có trụ sở ở Washington, tình hình với các khu vực phía đông và phía tây đặc biệt nghiêm trọng đối với Trung Quốc. Khu vực phía đông - bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ (mà đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ năm 2006 tuyên bố là lãnh thổ của Trung Quốc) - bao gồm quận Tawang, nơi sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Bất kỳ sự thừa nhận nào về chủ quyền của Ấn Độ đối với nó sẽ làm suy yếu chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng, vì điều này sẽ ám chỉ Đức Đạt Lai Lạt Ma là người Ấn Độ. Khu vực phía tây - Aksai Chin – mà Trung Quốc đang kiểm soát, cung cấp kết nối đường bộ trực tiếp duy nhất (Quốc lộ G219) giữa Khu tự trị Tân Cương và Khu tự trị Tây Tạng. Trong trường hợp bất ổn lớn ở một trong hai khu vực, nơi sinh sống của hàng triệu người dân tộc thiểu số, Trung Quốc sẽ phải dựa vào đường G219 để tiếp cận. Mất Aksai Chin, nói cách khác, sẽ gây nguy hiểm cho sự ổn định của toàn bộ biên giới phía tây Trung Quốc.

Kể từ năm 2016, Trung Quốc đã xây dựng cơ sở hạ tầng đáng kể ở vùng biên giới này vì lý do chiến lược và chiến thuật. Yếu tố chiến lược là Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc (2016 đến 2020) và các quy định mới về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở khu vực biên giới được công bố vào năm 2016. Không giống như các kế hoạch trước đó, tập trung vào phát triển đường nội bộ trong khu vực biên giới, Kế hoạch 5 năm ưu tiên một mạng lưới giao thông liên vùng thông qua chiến lược hợp nhất quân sự - dân sự. Nhiệm vụ này yêu cầu quân đội và chính quyền địa phương ở khu vực biên giới cùng nhau thúc đẩy xây dựng đường bộ kết nối các mạng lưới xuyên quốc gia.

Xây dựng cơ sở hạ tầng dọc theo biên giới với Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, sáng kiến chính sách đối ngoại hàng đầu của Chủ tịch Tập Cận Bình liên quan đến việc sử dụng phát triển cơ sở hạ tầng toàn cầu để mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Xây dựng đường về phía Ấn Độ được liệt kê là một trong năm khu vực ưu tiên (các khu vực khác là Triều Tiên, Myanmar, Nga và Mông Cổ) được quy định trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13. Tuy nhiên, do tranh chấp biên giới, việc xây dựng đường ở hướng đi Ấn Độ chắc chắn gặp phải vấn đề. Sự phát triển cơ sở hạ tầng dẫn đến vụ đối đầu ở Doklam 2017 cũng bắt nguồn từ nhiệm vụ tương tự.

Theo truyền thống, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều quan tâm đến sự hiện diện và kiểm soát vững chắc ở khu vực phía đông  của đường biên giới ngay từ những năm 1950. Sự hiện diện liên tục giảm bớt những mơ hồ trong việc kiểm soát thực địa của mỗi bên ở cả hai bên Đường Kiểm soát thực tế (LAC), biên giới trong thực tế trên lãnh thổ tranh chấp, cũng như sự hiểu biết lẫn nhau về họ - kết quả là, có ít cơ hội xâm lấn hơn.

Tuy nhiên, ở khu vực phía tây, do độ cao và điều kiện thời tiết khắc nghiệt, không bên nào có thể đóng quân vĩnh viễn ở một số khu vực nhất định, để lại nhiều dư địa cho những thay đổi nhỏ về tương quan lực lượng và kiểm soát các vùng lãnh thổ trong khu vực tranh chấp. Đây là lý do tại sao căng thẳng có xu hướng bùng phát ở khu vực phía tây thường xuyên hơn nhiều so với khu vực phía đông trong những năm gần đây - có nhiều chỗ cho trí tưởng tượng, sự xâm lấn và thay đổi.

Theo bài viết của bà Tôn trên War On the Rock, người Trung Quốc coi sự phát triển cơ sở hạ tầng của Ấn Độ trong khu vực mà Trung Quốc rút lui sau chiến tranh năm 1962 là nỗ lực nhất quán và lặp đi lặp lại của Delhi và “cần phải được điều chỉnh lại cho đúng cứ sau một vài năm”.

Theo một số nhà phân tích của chính phủ Trung Quốc, điều kiện tiên quyết để Trung Quốc không đi vào vùng 20 km từ LAC năm 1959 (và rút khỏi năm 1962) là lực lượng Ấn Độ cũng sẽ không vào đó. Tuy nhiên, lập trường đó của Trung Quốc dường như không dựa trên thỏa thuận với Ấn Độ. Đối với người Trung Quốc, cuộc chạy đua vũ trang cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới đã cho phép các cuộc xâm nhập lặp lại và thay đổi hiện trạng, và do đó cần phải chấm dứt. Nếu không, tất cả những điều Trung Quốc chiến đấu trong cuộc chiến năm 1962 sẽ là vô ích.

Sự cố Daulat Beg Oldi 2013 là một ví dụ điển hình cho cuộc chạy đua vũ trang cơ sở hạ tầng như vậy. Trong sự cố đó, Trung Quốc đã dựng trại trong khu vực, dẫn đến việc Ấn Độ trả đũa bằng hành động tương tự. Cuộc đối đầu kéo dài 20 ngày đã kết thúc với việc tháo dỡ các boongke của Trung Quốc gần Depsang, người Ấn Độ tháo dỡ boongke ở Chumar, và cả hai bên đều rút lui.

Các quan chức Trung Quốc không muốn tham gia vào các trận chiến pháp lý và chính trị trong việc làm rõ LAC, vốn là ưu tiên hàng đầu của Ấn Độ trước năm 2003 (năm mà New Delhi chính thức công nhận Tây Tạng là một phần của Trung Quốc). Bất chấp sự nổi bật trong lịch sử và tầm quan trọng của LAC, kể từ năm 2008, việc làm rõ LAC đã bị xóa khỏi các tài liệu song phương chính thức.

Người Trung Quốc coi việc làm rõ LAC là không thể vì hai bên chỉ đơn giản là không chia sẻ cùng một hồ sơ lịch sử hoặc quan điểm. Nỗ lực làm rõ LAC sẽ không mang lại sự rõ ràng,  mà là hỗn loạn và phức tạp. Theo logic này, Trung Quốc cho rằng việc giải quyết biên giới chỉ có thể đến từ một thỏa thuận trọn gói chính trị với Ấn Độ, chứ không phải là một thỏa thuận kỹ thuật. Trong lịch sử, Thủ tướng Chu Ân Lai đã hy vọng trao đổi chủ quyền của Ấn Độ ở khu vực phía đông để lấy chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực phía Tây, điều bị Thủ tướng Jawaharlal Nehru từ chối. Từ năm 1960 đến năm 1980 - từ Chu đến Đặng Tiểu Bình - Bắc Kinh đã liên tục mắc kẹt với đề xuất đó. Tuy nhiên, Ấn Độ đã từ chối cho đến khi Trung Quốc bắt đầu điều chỉnh vị trí của mình vào giữa những năm 1980 và coi quận Tawang là một vấn đề không thể giải quyết được. Thỏa thuận đó không còn trên bàn thảo luận nữa.

Một thỏa thuận biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ khó có thể xảy ra trong tương lai gần và Bắc Kinh tin rằng họ không có nhiều động lực để thúc đẩy giải quyết nhanh chóng. Ưu tiên của Trung Quốc vẫn là quản lý khủng hoảng và phòng chống leo thang, cho đến khi Ấn Độ sẵn sàng thực hiện một thỏa thuận trọn gói trao đổi phần phía đông và phần phía tây, ngoại trừ Tawang. Trong khi người Trung Quốc hiểu được ý thức cấp bách của Ấn Độ trong việc giải quyết các vấn đề giữa hai nước, thì Bắc Kinh coi biên giới bất ổn là đòn bẩy để hạ bệ Ấn Độ trong khu vực và làm suy yếu tiềm năng toàn cầu của họ. Đối với Trung Quốc, nhu cầu của Trung Quốc và Ấn Độ là khác nhau và không đối xứng. Những nhượng bộ chính mà Ấn Độ yêu cầu từ Trung Quốc trong việc giải quyết biên giới là những cam kết cứng không thể đảo ngược. Ngược lại, những gì Trung Quốc tìm kiếm từ Ấn Độ, chẳng hạn như tính trung lập của nước này trong cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc, là phù du và dễ dàng điều chỉnh. Trong khi New Delhi coi việc giải quyết vấn đề biên giới là điều kiện tiên quyết để Ấn Độ tin tưởng Trung Quốc, thì Bắc Kinh không tin rằng việc từ bỏ đòn bẩy của mình bằng mọi cách ngăn Ấn Độ tiến hành các hành động thù địch, như liên minh với Mỹ để làm suy yếu lợi ích của Trung Quốc khu vực Ấn Độ Dương.

MỚI - NÓNG