Chiến tranh, mất mát hy sinh đầu tiên thuộc về người ra trận mạc. Có vô số thân phận người lính: “Có người còn nguyên hình/Có kẻ cụt chân, có người thiếu ngón/Người thủng đầu, người Xơ gan, nát ngực/Còn riêng ta.../Ta chết giữa tuổi thanh xuân/Vì một nguyên tử hơi độc da cam. (Phùng Khắc Bắc). Muôn ngàn cái chết khác nhau, dĩ nhiên cũng bằng ấy nỗi đau.
Thời chiến tranh, ám ảnh tôi nhất là tin báo tử về làng.
Chòm xóm nhà tôi, ai oán tiếng khóc hời suốt đêm. Sáng ra, nhìn thấy vườn hàng xóm trắng xóa các gốc cây. Người nhà đội khăn tang, nhưng cũng không quên quét vôi trắng cho cây để tang người hy sinh ở mặt trận. Có lúc lặng lẽ, có lúc ồn ào người đến chia buồn. Bà mẹ thì khóc ngất lên ngất xuống. Nhưng người vợ thì không một giọt nước mắt. Ngồi trơ trơ. Vô hồn. Như đá như đồng. Thỉnh thoảng có tiếng người nhỏ nhẹ, yếu ớt: “Khóc đi em. Khóc đi cho nhẹ lòng”. Khóc sao nổi, nỗi đau đã hóa đá rồi!
Hình ảnh lính Mỹ trước người dân Mỹ LaiThời chiến tranh, trai tráng ra trận hết, làng toàn đàn và con gái với ông già bà lão. Nhà văn Đỗ Văn Nhâm có cái tứ truyện “Làng xa” rất hay, ám ảnh. Ông xã đội trưởng là thương binh chống Pháp, một chân lành một chân giả. Những người vợ, người mẹ cứ nghe thấy bước chân ông cọc cạch trên đường là hốt hoảng mắt nhìn. Ông rẽ vào cổng nhà khác mới thở phào nhẹ nhõm. Ông đến nhà ai thì làm một trong hai việc: Hoặc đưa giấy triệu tập nhập ngũ, hoặc đưa giấy báo tử. Không đưa giấy nhập ngũ, mà lại đưa giấy báo tử thì sao? Truyện ngắn này, nhà văn lấy cảm hứng từ chuyện có thật ở làng ông.
Những năm chiến tranh đánh Mỹ, bọn tôi còn nhỏ. Trẻ con thì sợ bom đạn, khi ngớt máy bay phá hoại là lại chơi tưng bừng. Thậm chí có đêm tối đen, máy bay rít trên trời mà vẫn đứng ở đầu làng nhìn về phía ga Gành thấy từng luồng đạn cao xạ đỏ nối đuôi nhau vạch lên trời. Có khi lần mò trong đêm, chui bờ rúc bụi, suông vườn chuối, lủi vườn cà đánh trận giả, bọn tôi tình cờ bắt gặp những người đàn bà tắm đêm. Khuya cũng người tắm. Sớm cũng có người tắm. Không cạnh giếng khơi, thì cũng trên cầu ao nhà mình. Kín đáo có. Hở hang có. Lúc đó, trong trí óc non nớt của mình, chỉ thấy bẽn lẽn, và tò mò, chứ không cắt nghĩa được sao nhiều đàn bà lấy giếng nước làm bầu bạn. Nửa đêm thức dậy thấy chị hàng xóm đằng trước có chồng đi B vẫn đang xay lúa. Gần sáng lúc tỉnh lúc mơ còn biết chị hàng xóm đằng sau có chồng chết trận giã gạo buổi sớm.
Cuộc chiến tranh nào, dù tàn khốc, kéo dài dai dẳng bao nhiêu thì cũng phải đến hồi kết thúc. Hòa bình, lô cốt, xác xe tăng, bùng nhùng kẽm gai... cũng dần biến mất giữa ngút ngàn màu xanh.
***
Cuộc chiến tranh nào rồi cũng đến lúc phải kết thúc. Nỗi đau thương bên thắng trận và bên thua trận chẳng biết bên nào đau thương hơn bên nào. Bởi Tạo hóa rất công bằng, cứ người đàn bà này sinh một con trai thì người kia lại đẻ một con gái. Ở phía sau, cũng có nỗi đau không nói thành lời. Nhà thơ Hữu Thỉnh viết: “Chị thiếu anh nên chị thừa ra/Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”. Cứ bao nhiêu người con ra trận không về, thì cũng gần bằng từng đó người mẹ khóc hời “Lá xanh còn ở trên cây/Lá vàng đã rụng trời ơi hỡi trời”. Cứ bao nhiêu người con trai ra trận thì cũng từng ấy người con gái... thừa ra.
Pháo đài bay của Mỹ trải thảm xuống Việt Nam năm 1972. Ảnh: TLTôi đã viết truyện ngắn “Mười ba bến nước” với triết lý: Đời người đàn bà trôi qua mười hai bến nước, gặp bến trong thì may, bến đục thì rủi. Nhưng, người vợ lính còn phải đi qua bến nước thứ mười ba - bến nước chiến tranh. Làm vợ lính đằng đẵng chồng xa nhà đã khổ, nhưng người lính bị nhiễm chất độc da cam thì trăm ngàn nỗi đau hơn. Người lính đi qua vùng rừng trụi lá mà họ không biết. Chiến tranh kết thúc, trở về vẫn lành lặn, vẫn lấy vợ sinh nở. Chỉ có điều không ra những đứa con lành lặn làm người, mà ra những đứa bé dị dạng, tật nguyền, thậm chí ra những cục thịt đỏ hỏn. Mong ước hạnh phúc đơn sơ bình thường làm cha làm mẹ cũng không có sau chiến tranh. Nhìn những đứa con dị dạng, nhìn người vợ héo mòn, lòng dạ ai chẳng buốt giá.
Chiến tranh đã kết thúc, mà con người vẫn không thoát khỏi chiến tranh. Năm 2017, một khảo sát của Bộ Quốc phòng: Chỉ riêng tỉnh Quảng Trị đã có tới 82% diện tích tự nhiên bị ô nhiễm vật liệu nổ chiến tranh, ước tính khoảng 800.000 tấn. Từ năm 1975, toàn quốc đã có 40.000 người chết, 60.000 người bị thương do bom mìn chiến tranh còn sót lại. Người chết thì cũng yên phận, nhưng người sống thì tật nguyền, mất khả năng lao động, như một gánh nặng cho gia đình, xã hội. Có nỗi nhọc nhằn nào, có nỗi đau nào hơn thế?
Cuộc chiến tranh nào, dù tàn khốc, kéo dài dai dẳng bao nhiêu thì cũng phải đến hồi kết thúc. Hòa bình, lô cốt, xác xe tăng, bùng nhùng kẽm gai... cũng dần biến mất giữa ngút ngàn màu xanh. Nhưng, mất mát hy sinh và nỗi đau chiến tranh thì vẫn hiện diện đâu đó, không thể đào sâu chôn chặt.