Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I

Sự thành công của nền văn minh Hy-La được kiến tạo nên từ những giá trị cốt lõi như sự hiểu biết, nỗ lực học hỏi và sáng tạo không ngừng nghỉ cùng chiến lược đúng đắn - tinh thần đoàn kết và tầm ảnh hưởng rộng lớn.
Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 1  
  
Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 2  
  
Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 3  
Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 4  

Trong dòng chảy của lịch sử văn minh phương Tây cổ đại, hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã giữ vai trò nền tảng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển của những cư dân gốc du mục, cùng với đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ từ các thành bang nhỏ bé. Do có cùng một phong cách nên hai nền văn minh này được gọi chung là văn minh Hy-La.

Khác với các quốc gia cổ đại ở phương Đông, chủ yếu được hình thành ở những khu vực gần các con sông, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp; còn văn minh phương Tây cổ đại được hình thành và phát triển trên những khu vực có điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, phức tạp – không thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp nhưng bù lại có sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Từ đó hình thành những con đường giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè… thúc đẩy giao lưu, buôn bán giữa các nước; đồng thời mang những thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp thế giới.

Sự phát triển của kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ đại. Đặc biệt là sự phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nô – gắn liền với phương thức sản xuất đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại, đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo những giá trị vật chất, tinh thần của nền văn minh phương Tây.

Sự giàu mạnh về kinh tế chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy khát vọng mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Văn minh Hy-La không chỉ đặt nền tảng vững chắc nhất cho văn minh phương Tây cổ đại phát triển, mà còn có nhiều đóng góp cho nhân loại với hàng loạt phát kiến vĩ đại trong suốt chiều dài lịch sử, đồng thời đóng góp chung cho sự phát triển của nhân loại.

Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 5  

Việc học hỏi, tiếp thu tri thức từ các dân tộc khác dường như đã là nguyên tắc tồn tại bất biến của tất cả quốc gia, dân tộc trên thế giới nếu muốn muốn hùng cường và tồn tại lâu dài.

Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 6  

Hy Lạp và La Mã là hai quốc gia riêng biệt do các tộc khác nhau lập nên. Đến thế kỉ II TCN, Hy Lạp bị La Mã chinh phục, nhưng trước đó rất lâu, La Mã đã tiếp thu nhiều thành tựu văn minh của Hy Lạp. Sau khi Hy Lạp nhập vào đế quốc La Mã, ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp đối với La Mã càng mạnh mẽ hơn. Do đó, nền văn minh Hy-La có những đóng góp quan trọng đối với phương Tây ở nhiều lĩnh vực văn học, triết học, khoa học tự nhiên, nghệ thuật và kiến trúc… Hai nền văn minh này là nền móng vững chắc và tiếp thêm lửa cho thời Phục hưng ở Tây Âu và văn minh phương Tây sau này.

Người Hy Lạp khát khao học hỏi, kế thừa và cải tiến, họ học chữ cái của xứ Pheoxini, sau đó thêm các nguyên âm và biến nó thành chữ của người Hy Lạp và sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng. Còn người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hy Lạp. Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên thế giới sau này.

Nền văn minh Hy-La cổ đại đã để lại cho nền văn học phương Tây và thế giới một kho tàng văn học với những tác phẩm đồ sộ, có giá trị về nhiều mặt và được xem là khuôn mẫu cho văn học và nghệ thuật. Sự đóng góp và ảnh hưởng của văn học phương Tây cổ đại đối với châu Âu và thế giới cho đến tận ngày nay, nhiều tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và được khai thác, nghiên cứu, phát triển.

Hy Lạp là một dân tộc có một kho tàng thần thoại lớn trên thế giới. Trong đó phải kể đến anh hùng ca Iliat và Odyssey của Homer, đây là một tác phẩm thần thoại ra đời vào thế kỉ IX TCN đã nêu ra vấn đề quan hệ giữa con người, vũ trụ và thần linh, tượng trưng cho các hiện tượng khác nhau của xã hội và tự nhiên, giữa hiện thực và tưởng tượng. Bên cạnh đó, dân tộc Hy Lạp còn mở đầu cho loại hình nghệ thuật với cả bi lẫn hài kịch, những nhà viết kịch nổi tiếng như: Etsin, Sophocles, Euripides… Còn văn học La Mã chủ yếu kế thừa từ Hy Lạp, nhưng cũng có nhiều thể loại phát triển như thơ, kịch, sử thi với các tác giả nổi tiếng như Xixeron, Vergil, Horatius… Người La Mã tiếp thu và cải biên tạo ra những vị thần của mình như: thần Zeus – thần Jupiter, thần Hera, Poseidon, Demeter, Athena, Hestia, Apollo, Artemis, Ares… và trở thành cảm hứng bất tận của thơ ca và kịch…

Kiến trúc Hy-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng dụng cho những công trình kiến trúc hiện đại. Kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc thời cổ đại của Hy-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan rộng toàn thế giới. Cùng với nghệ thuật kiến trúc được thể hiện ở các công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ thuật điêu khắc ở Hy Lạp và La Mã cũng có bước phát triển tạo nền tàng vững chắc cho nghệ thuật phương Tây cổ đại.

Các công trình kiến trúc tiêu biểu ở Hy Lạp thời bấy giờ là đền Parthenon, vệ thành Aropolis ở Athens, đền thờ thần Zeus ở núi Olempia… 

Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 7 Đền thờ thần Zeus Olympia là công trình huy hoàng, vĩ đại. Đền thờ được xây dựng vào năm 515 TCN, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 2 sau CN công trình này mới được hoàn thành, có thể chứa hơn 40.000 khán giả

Vệ thành Acropolis nổi tiếng nhất hay lũy thành của Athen - biểu tượng cho cả một nền văn minh huy hoàng, đồng thời là một di sản vĩ đại của nhân loại mà nền văn minh Hy Lạp đã để lại. Acropolis bao gồm các công trình kiến trúc cổ kính, các cổ vật, đền đài từ thời cổ đại phục vụ việc bảo vệ cho các cư dân nơi đây suốt hơn 3.300 năm.

Kiến trúc La Mã chịu ảnh hưởng từ Hy Lạp nhưng lại mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ, họ đã tiến hành xây dựng các công trình bằng bê tông. Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.

Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm đến bây giờ vẫn xứng đáng là mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milo, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần Athena, tượng thần Hecmet... Những nhà điêu khắc tiêu biểu như Phidias, Miron, Polykleitos… Nghệ thuật điêu khắc ở La Mã phác họa trạng thái tinh thần của con người như tượng bán thân vua Caesar với gương mặt đầy tham vọng,  Augustus thể hiện sự quyết tâm, Diocletian thể hiện sự cứng rắn…

Triết học Hy-La cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương Tây, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học châu Âu sau này. Trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ, đại biểu cho các khuynh hướng chính trị khác nhau, quan điểm của các nhà triết học Hy-La rất đa dạng, nhưng chia làm hai phái chính là triết học duy vật và triết học duy tâm.

Triết học duy vật gồm những đại diện tiểu biểu như: Talet, Heraclite, Anaximamdre… Nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là nhà toán học Talet. Quan điểm triết học của ông là quan điểm duy vật tự phát. Ông cho rằng nước là nguyên tố cơ bản của vũ trụ. Nước luôn luôn vận động nhưng trước sau không thay đổi và do đó hòa tan mọi vật. Bởi vậy nước là nguồn gốc của vũ trụ và sinh mệnh của con người.  Nhà triết học còn cho rằng nguồn gốc của vạn vật là lửa. “Đấu tranh là nguồn gốc của vạn vật”, vì đấu tranh giữa hai mặt đối lập là cơ sở của mọi tồn tại và tư tưởng. Vũ trụ cũng như mọi vật không phải do bất cứ vị thần nào sáng tạo ra. Trước kia, hiện nay và sau này, nó là ngọn lửa vĩnh viễn và linh hoạt thiêu đốt theo quy luật và cũng tắt theo quy luật. Nhà triết học Anaximamdre thì nhận định nguồn gốc của vũ trụ là vô cực – chia thành hai mặt đối lập như khô ướt, nóng và lạnh, rồi kết hợp với nhau mà hình thành mọi vật như đất, nước, không khí, lửa…  Đồng thời, ông cho rằng vũ trụ không ngừng phát triển, không ngừng hình thành, không ngừng sinh sản ra những vật mới. 

Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 8 Aristotele - nhà triết học Hy Lạp cổ đại người đặt nền móng cho môn luận lý học và “cha đẻ của khoa học chính trị” với câu nói bất hủ “Bản chất của con người là ham hiểu biết.”

Triết học duy tâm với những tên tuổi như Aristotele, Socrates, Platon… Nhà triết học vĩ đại  của Hy Lạp cổ đại chính là Aristotele - một học giả uyên bác về nhiều lĩnh vực như triết học, toán học, vật lý học, sinh vật học, sinh lý học, y học, sử học… và được gọi là bộ Bách khoa toàn thư của Hy Lạp. Ông cho rằng vật chất tồn tại vĩnh viễn – sự vật cụ thể được tạo nên bởi bốn nguyên nhân là chất liệu, hình thức, động lực và mục đích. Nhà triết học của Socrates cho rằng mục đích của triết học không phải để nhận thức tự nhiên mà là để nhận thức bản thân mình. Về phương pháp luận, Socrate phản đối việc dạy lý thuyết, chủ trương chỉ cần đặt ra những câu hỏi để đối phương trả lời, như vậy có thể đạt tới chân lý. Tư tưởng triết học của Platon có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy tâm ở phương Tây. Hạt nhân của quan điểm triết học Platon là ý niệm và linh hồn bất diệt. Hóa công dùng ý niệm để sắp xếp lại mọi sự vật làm cho vũ trụ trở thành có trật tự. Đồng thời, ông đã nhận thức được quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định.

Còn triết học ở La Mã thời kỳ này không có nhiều sáng tạo mà chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp. Đến thế kỉ I TCN, triết học La Mã tương đối phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc của La Mã là Lucretiut.

Về khoa học tự nhiên, nền văn minh Hy Lạp cổ đại có những cống hiến quan trọng về các mặt Toán học, Thiên văn học, Vật lí học, Y học… Trong đó phải kể đến Pythagoras – nhà triết học, nhà khoa học, toán học vĩ đại đã chứng minh định lí mang tên ông vào thế kỉ V TCN. Ông cho rằng mọi nhận thức đều có tính chất chủ quan - "con người là thước đo của mọi sự vật". Hay Archimede là nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh - người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Acsimet).  

Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ I ảnh 9 Plinius – nhà khoa học có nhiều đóng góp cho nền văn minh La Mã với tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” được coi như Bách Khoa toàn thư của La Mã

Đến thời La Mã, các lĩnh vực này tuy không phát triển bằng Hy Lạp nhưng cũng có nhiều đóng góp quan trọng của một số nhà khoa học tiêu biểu như Plinius với tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” được coi như Bách Khoa toàn thư của La Mã - tập hợp các tri thức của các lĩnh vực Thiên văn học, Vật lí học, Địa lí học, Nhân loại học, Động vật học, Thực vật học…

Bên cạnh đó, nền văn minh Hy-La cổ đại đã chứng tỏ trí tuệ vượt bậc trong lĩnh vực y học. Ở Hy Lạp, thầy thuốc Hippocrates đã chữa bệnh bằng biện pháp uống thuốc hoặc phẫu thuật, được mệnh danh là “Cha đẻ của y học Phương Tây”. Đại diện tiêu biểu cho y học La Mã là Claudius Galen với tác phẩm “Phương pháp chữa bệnh”. Ông đã chứng minh các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy hết cơ thể trong vòng nữa giờ.

Thời cổ đại, người Hy Lạp và La Mã đều theo đa thần giáo. Điểm khác biệt về tín ngưỡng ở Hy Lạp là các vị thần đều mang hình người đầy đủ với những đức tính tốt xấu của con người, gần gũi với con người. Kitô giáo ra đời tại La Mã vào cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I TCN, ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã hội và vượt ra khỏi phạm vi La Mã. Đến nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng lan rộng hầu khắp các quốc gia.

Tuy nền văn minh Hy Lạp và La Mã có sự những điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm riêng khác biệt. Đại hội Olympic cổ đại – minh chứng lịch sử cho thời kỳ phồn vinh của Hy Lạp cổ đại, được tổ chức 4 năm một lần đến nay vẫn được duy trì. Điểm tiến bộ, khác biệt ở La Mã là sử dụng tiền đồng Sestertius, áp dụng chủ nghĩa duy lý kinh tế - sử dụng hệ thống kế toán, đầu tư ngân hàng và phát triển tín dụng.

Những đóng góp văn minh Hy-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh hào quang rực rỡ nhất. Cùng với những giá trị của văn minh tiếp sức cho phong trào văn hóa Phục hưng, văn minh phương Tây , đồng thời tạo một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ. 

(Đón đọc nội dung tiếp theo: Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây – Kỳ II.)

MỚI - NÓNG